Nguyễn Tuấn
Khanh
Ý
NGHĨA CỦA
Hòa ước
Giáp Tuất được ký ngày 18-3-1874, toàn cõi miền Nam trở thành thuộc địa của
Pháp. Bốn năm sau đó, ngày 6-4-1878, thống đốc Nam Kỳ là phó đề đốc Hải quân
Pháp Louis Lafont ban hành nghị định, kể từ ngày 1-1-1882 bắt buộc tất cả những
giấy tờ hành chánh như công văn, nghị định, sắc lệnh, án tòa v.v… không được viết
bằng chữ Hán nữa, mà phải viết bằng mẫu tự La Tinh, tức là chữ Pháp hoặc chữ Quốc
ngữ. Ngoài ra, những người muốn vào làm việc cho các cơ quan nhà nước ở các cấp
phủ, huyện, tổng phải biết chữ Quốc ngữ. Thời gian ban hành nghị định và thời
gian thi hành cách nhau 4 năm để có đủ thời gian tổ chức giáo dục. Chương trình
cho bậc tiểu học Pháp-Việt là 6 năm, 3 năm đầu học sinh được học 3 thứ chữ là
chữ Nho, Pháp và Quốc ngữ, nhưng 3 năm sau chỉ còn học chữ Pháp và Quốc ngữ mà
thôi. Kể từ đây, người Việt được học theo hệ thống giáo dục của Pháp và bắt đầu
làm quen với phong tục và văn hóa Tây phương. Kết quả của sự cưỡng bách giáo dục
này là đến cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, tại Việt Nam đã có nhiều người theo
tân học. Nhờ tiếp xúc với nền văn minh Tây phương, những người theo tân học
này, trong đó bao gồm cả những nhà cách mạng, nhà báo và và các nhà trí thức nhận
thấy xã hội Việt Nam còn thua kém nhiều nước trên thế giới nên đã có nhiều
phong trào kêu gọi dân Việt nên canh tân, đổi mới ngõ hầu theo kịp nền văn minh
tiên tiến và danh từ “Cải Lương” đã bắt đầu được nhiều người biết đến.
Nếu giải
thích theo định nghĩa thông thường của tự điển bằng cách cắt nghĩa riêng từng
chữ Hán Việt “cải” có nghĩa là “sửa đổi” và “lương” có nghĩa là “tốt lành” rồi
ghép lại thì hai chữ “Cải Lương” có nghĩa là “sửa đổi cho trở nên tốt hơn”. Định
nghĩa đó quả đúng như hoài bão của Lương Khắc Ninh khi ông muốn “Cải Lương” lại
bộ môn Hát Bội vào những năm 1916, 1917 vì lối diễn xuất cùng hát xướng của các
đào kép hát bội ngày càng sút kém, nên ông kêu gọi chấn chỉnh lại lối hát cùng
diễn xuất cho hay như xưa. Tuy nhiên, vào những thập niên cuối thế kỷ 19, đầu
thế kỷ 20, hai chữ “Cải Lương” tại Việt Nam có một định nghĩa khác, được dùng
trong nhiều trường hợp để chỉ sự “Thay Cũ Đổi Mới”, kêu gọi “Duy Tân” theo nền
văn minh Tây phương, thí dụ như “Cải Lương Hương Chính”: tổ chức hành chánh
làng xã theo lối mới; có hợp tác xã, “Sử Ký Cải Lương”: viết sử theo phương
pháp Tây phương theo diễn biến sự việc, thay vì viết theo niên biểu; “Đám Tang
Cải Lương”: tang lễ làm theo nghi thức Tây phương; “Thiên Chúa Cải Lương”: đạo
Protestantisme (đạo Tin Lành, người Trung Quốc gọi là Tân Giáo); “Quốc Âm Cải
Lương”: dùng chữ quốc ngữ để phiên âm tiếng ngoại quốc thay vì dùng Hán Việt
(thí dụ: cà phê, ba ton, bánh bích quy…), “Cúp Tóc Cải Lương”: hớt tóc ngắn
thay vì để búi tóc ; “Chèo Cải Lương” tức “Chèo Văn Minh”: hát chèo trên sân khấu
ở rạp có bài trí phông màn như sân khấu thoại kịch Tây phương thay vì hát ở sân
đình, phục trang cải tiến v.v…
Các
sách báo thời đó khi dịch hai chữ “Cải Lương” ra tiếng Pháp thì họ dùng từ
“Modernes” có nghĩa là “hiện đại hóa”. Tác giả Trung Trực đã viết trong báo Lục
Tỉnh Tân Văn ngày 9-2-1923 bài “Tình Trạng Cải Lương Của Người Mình” như sau:
“Đang
buổi phong trào thay cũ làm mới, cái tiếng cải lương xuất hiện ở xứ mình, nghe
ra ngày một cổ võ vô cùng, trong dân bất cứ là làm những việc gì, đều mượn cái
tiếng cải lương bịa vào để nghe cho đẹp! Nào là nghề diễn kịch cũng cải lương,
cuộc tuyển cử Nghị viên quản hạt cũng cải lương, việc hôn, quan, tang, tế cũng
cải lương, vân vân; nên làm những việc chi hễ bịa vào tiếng nói cải lương được,
thì trong trí vẫn trộm tưởng rằng việc ấy đã thập phần hoàn mỹ, không còn điều
chi phải ái ngại nữa. Mà thật thế, phàm việc gì đã gọi rằng cải lương, thì cả
thảy ai ai cũng phải nhìn cho là việc hoàn mỹ vậy. Nhưng mà, nếu có ai là người
ưu thời mẫn tục, lưu tâm chính xét đến hiện tình cải lương tấn bộ của người nước
mình, thì người ấy ắt phải châu mày về nỗi lễ nghi trật tự nước nhà ngày kia phải
điên đảo cũng bởi cái tiếng cải lương đó đi mà chớ. Là bởi tiếng cải lương của
người mình đang dùng đó, phần nhiều chưa thấy có cái hiệu quả gì vào đường khai
trí tấn đức của quốc dân, mà xét kỹ ra, thì cũng phần nhiều hình như đem việc tệ
nay mà thay vào việc tệ xưa, hoặc đem một việc mới không cần dùng mà đổi phứt
đi với một việc cũ đã giúp ích cho nước nhà xã hội ta từ xưa một nền luân lý rất
đẹp đẽ vô cùng.
Nghĩ
ra, thì cái tiếng cải lương của dân ta đang hâm mộ, đang trọng dụng bây giờ đó,
ví khác nào một gã dung y kia ham dùng những vị thuốc độc ấy đâu. Mà quả làm vậy,
cái hại của những người chưa có trí dục và đức dục mà lạm dùng hai chữ cải
lương, thì có khác nào cái hại của bọn dung y chưa thông tánh dược mà lại ham
dùng những vị thuốc độc.”
Đến giữa
thập niên 1910, tại miền Nam có nhiều tỉnh đã lập ra những hội Khuyến Học với mục
đích là khuyến khích và giúp đỡ dân Việt trong việc theo tân học, cải tiến canh
nông, thương mại, kỹ nghệ v.v… Năm 1916, hội Khuyến Học Long Xuyên do đốc phủ
Lê Quang Liêm, còn gọi là Đốc phủ Bảy làm hội trưởng lập ra “Cải Lương Kịch
Xã”, thành viên là những nhà trí thức, thông ngôn, ký lục để trình diễn những vở
kịch nói bằng tiếng Pháp và tiếng Việt cho công chúng xem.
Trong
buổi tiệc mừng ngày 16-9-1917 tại nhà hàng Soái Kình Lâm ở Chợ Lớn để đón tiếp
hội Khuyến Học Long Xuyên lên Sàigòn, Nguyễn Chánh Sắt đã tóm tắt sứ mạng của
các hội Khuyến Học như sau: “Tôi nghĩ vì Khuyến Học Hội là chỗ giáo dục nhân
tài, chư Báo Quán là nơi quảng khai dân trí, còn Cải Lương Kịch Tràng là chỗ điểm
hóa nhân tâm. Nếu ba nhà ấy mà liên hiệp với nhau, lo tìm điều công ích mà phổ
hóa cho đồng bào, dường ấy thì cái tiền đồ của quốc dân ta mới thấy mon men tới
bến văn minh mà vẻ vang trong hoàn võ” .
Đốc phủ
Lê Quang Liêm (người đứng giữa mặc áo gấm) và các viên chức trong hội Khuyến Học
Long Xuyên
Nhóm
“Cải Lương Kịch Xã” này trình diễn lần đầu tại Long Xuyên nhân ngày quốc khánh
Pháp 14-7-1916. Năm sau, cũng vào ngày quốc khánh Pháp 14-7-1917, “Cải Lương Kịch
Xã” trình diễn vở kịch “Vì Nghĩa Quên Nhà” bằng hai thứ tiếng Việt và Pháp do Đốc
phủ Bảy và Hồ Văn Trung (Hồ Biểu Chánh) sáng tác để lấy tiền giúp cho cô nhi quả
phụ trong trận thế chiến lần thứ nhất. Buổi trình diễn này rất thành công, được
cả người Pháp lẫn người Việt ca ngợi nên hội Khuyến Học Long Xuyên tiếp tục lên
Sàigòn trình diễn tại rạp hát bóng Eden vào hai ngày 11 và 12 tháng 9 năm 1917.
Hai chữ
“Cải Lương” dùng để chỉ bộ môn kịch nghệ sân khấu lần đầu được báo chí nhắc đến
trong dịp này. Lần thứ nhất Nguyễn Chánh Sắt viết trong bài giới thiệu “Cải
Lương Kịch Xã” trong “Nông Cổ Mín Đàm”:
“Bổn quán xin nhắc lại cho liệt vị rõ rằng bạn
hát Cải Lương nầy toàn là mấy thầy trong hội Khuyến Văn tỉnh Long Xuyên làm tuồng,
đều là người có học thức, chớ chẳng phải như hát bội Annam mà chúng ta xem thường
tự thuở đến nay đâu”. (Nông Cổ Mín Đàm ngày 6-9-1917)
Lần thứ
nhì là trong bản tin tường thuật cuộc hát tại Gò Vấp:
“Cuộc
hát làm phước tại Gò Vấp:
Đêm 20
Septembre 1917 rồi đây cuộc hát làm phước của mấy ông Hội đồng quản hạt bày ra
tại rạp hát Cải Lương Gò Vấp, thâu được ba trăm mấy chục đồng, và đã dâng liền
cho hội Ái Quốc Sàigòn và để tế cấp cho những trẻ mồ côi vì cuộc binh tai bên
Âu Châu”. (Nông Cổ Mín Đàm ngày 18-10-1917)
Lần thứ
ba đề cập trong lời giới thiệu bài ca Tứ Đại khuyên đồng bào giúp cô nhi quả phụ:
“Bổn
quán xin nhắc lại rằng trong đêm 12 Septembre 1917, là đêm Hội Khuyến Học Long
Xuyên diễn tuồng Cải Lương tại rạp hát Cô Tám ở Chợ Lớn, trong khi đổi lớp tuồng
thì có đờn tài tử và ca”. (Nông Cổ Mín Đàm ngày 6-12-1917)
Như vậy,
hai chữ “Cải Lương” được dùng cho bộ môn sân khấu bắt nguồn từ bộ môn Kịch Nói
do hội Khuyến Học Long Xuyên khai sinh với nhóm “Cải Lương Kịch Xã” là để “diệt
tục phong di theo lối văn minh thời đại”. Bộ môn kịch nói được gọi là “Cải
Lương” này là trình diễn theo lối “văn minh” của kịch nghệ Tây phương đã được
Nguyễn Chánh Sắt giải thích rõ ràng như sau:
“Vả
chăng trong cuộc hát xướng mà cải lương theo lối văn minh thời đại này, thì vẫn
có ba điệu: Một là Opéra (Ô-bê-ra); Hai là Opérette (Ô-bê-rết); Ba là Comédie
(Cô-mê-di)[2]. Opéra là tuồng hát ròng Nam Khách ngâm nga, có múa nhảy và có đờn
ca nhạc trổi từ đầu tuồng cho đến vãn; Opérette là tuồng hát có Nam Khách ngâm
nga mà cũng có khi diễu cợt; còn tuồng Comédie cũng như tuồng đồ để mà bao biếm
phong tục, và cũng có làm trò diễu chơi cho vui dạ kẻ khán tràng.
Nay Hội
Khuyến Học Long Xuyên mà hát đó là hát tuồng Comédie (Cô-mê-đi) rồi lần lần đây
sẽ đặt tuồng thêm mà hát cho đủ ba điệu cho được trọn tốt trọn lành, chớ nay mới
khởi ra thì làm sao cho toàn hảo được”. (Nguyễn Chánh Sắt, “Cuộc Hát Cải
Lương”, Nông Cổ Mín Đàm, 27-9-1917).
Vở “Vì
Nghĩa Quên Nhà” tuy không phải là vở kịch đầu tiên viết bằng tiếng Việt, nhưng
nhờ có sự trình diễn của các vị trí thức trong nhóm “Cải Lương Kịch Xã” của hội
Khuyến Học Long Xuyên cùng với sự phổ biến rộng rãi của báo chí thời đó nên được
nhiều người biết đến. Lối diễn xuất tự nhiên cùng với lời đối thoại trong sáng,
dễ hiểu, khác xa với bộ môn hát bội nên đã được đón nhận nhiệt liệt, mở đầu cho
một luồng gió mới trong bộ môn kịch nghệ Việt Nam.
Trước
đây cũng đã có nhiều nơi diễn những vở kịch của Pháp, hoặc bằng tiếng Pháp, hoặc
được dịch ra tiếng Việt, nhưng thường là trong phạm vi của những trường học hoặc
nhà thờ, chưa được phổ biến rộng rãi trong công chúng vì nội dung những vở kịch
đó thường mang tính cách học đường hoặc tôn giáo. Thỉnh thoảng trên báo chí
cũng có đăng những vở kịch bằng tiếng Pháp được dịch sang tiếng Việt, nhưng văn
phong của những vở kịch dịch đó vẫn còn chịu ảnh hưởng của lối viết tuồng hát bội.
Thí dụ như trong Nông Cổ Mín Đàm có đăng những vở kịch dịch từ tiếng Pháp của
Nguyễn Ngọc Ẩn như “Con Khỉ Hát Bóng” ngày 14-11-1914, “Gà Và Vịt” ngày
9-2-1915 và “Nhuệ Minh Kê” ngày 10-2-1916. Vở “Nhuệ Minh Kê” được dịch ra từ vở
kịch Chantecler (1910) của thi sĩ kiêm kịch tác gia người Pháp là Edmond
Rostand, diễn tả cuộc đối đáp của con gà trống cắt nghĩa cho con chim trĩ nghe
về việc gà trống gáy sáng đánh thức mặt trời dậy. Vở kịch này rất nổi tiếng và
hiện nay được coi như là một trong những vở kịch kinh điển của bộ môn kịch nghệ
đầu thế kỷ 20. Sau đây là một phần trích đoạn của vở “Nhuệ Minh Kê” do Nguyễn
Ngọc Ẩn dịch, ta thấy vẫn còn văn phong cùng những câu “hường”, “vĩ” của hát bội:
. . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Thư
Trĩ kinh hoàng nhi viết:
Húy
cha chả!
Nhuệ
Minh Kê viết:
Và cái
tiếng gáy của ta
Đã chắc
rồi chỗ thắng không sai,
Liền
trổi tới giọng hùng thêm rõ,
Càng
nghe càng ó
Càng
lóng càng oai
Chơn
trời mù sảng sốt thừa sai,
Vừng
mây ửng nhộn nhàng phụng lịnh!
Thư
Trĩ viết:
Húy
cha chả!
Nhuệ
Minh Kê viết:
Ta gáy
lên, chừng đó thì
Đêm hắc
ám cầu hòa dua nịnh
Mượn
huỳnh hôn hối lộ tà tây;
Dẫu thế
nào, ta cũng không nghe;
Vì
nghĩa nọ, ta thì cứ gáy!
Rồi
phút chốc...
Thư
Trĩ viết:
Húy
cha chả!
Nhuệ
Minh Kê viết:
Ta thối
lui, lạ bấy!
Thoạt
mình đà rực rỡ, xinh thay!
Ta
đây. Chẳng qua là đứng giữa quần kê
Mà lại
đã làm lên mặt nhựt!
Thư
Trĩ viết:
Té ra,
đó là trọn cả cái điều bí nhiệm nó làm cho mi gáy sao?
Nhuệ
Minh Kê viết:
Ấy
cũng bởi vì ta dám chắc
Rằng nếu
mà không mỗ đảm đương
Thì hẳn
hòi ở phía Đông phương
Sẽ mê
mẩn yên vòng hắc tịch!
Ta nào
ráng “ó o” thích lịch
Đặng
mà xin eo éo lôi đồng!
Ta chỉn
vì quang diệu gia công,
Dễ nào
tưởng vinh hoa cần tác.
Gáy là
hẳn phép ta công phạt
Gáy là
rành lẽ mỗ tư lương;
Và nếu
mà trong. Tiếng tầm thường, giọng mỗ phi thường,
Ấy là
chỉn vì ta. Gáy minh bạch, cho trời thanh bạch!
Những
vở kịch do nhóm “Cải Lương Kịch Xã” diễn đã không còn ảnh hưởng theo lối viết
văn của hát bội nữa vì những vị trong hội Khuyến Học Long Xuyên là những người
theo tân học và họ đã từng diễn những vở kịch của Pháp bằng tiếng Tây trước đó
rồi. Sau đây là lớp thứ nhất của vở tuồng “Vì Nghĩa Quên Nhà”[3] do Lê Quang
Liêm và Hồ Biểu Chánh sáng tác:
Lớp nhứt
Giở
màn ra thì thấy Lê Hiền Sĩ đương ngồi dạy con trai lớn và con gái học dựa bàn.
Cô Thông ngồi may trên bộ ván, còn đứa con trai nhỏ nằm ngủ một bên.
Lê Hiền
Sĩ: Con dạy hoài cũng vậy. Làm toán mà viết không ngay hàng cộng làm sao được?
Ngọc
Anh: Tại cha không gạch mà ai viết cho ngay được?
Hiền
Sĩ: Đâu, đưa tao viết lại cho mà cộng.
(Hiền
Sĩ lấy giấy viết rồi đưa lại cho con gái)
Hiền
Sĩ: Đây, cộng đi.
Ngọc
Anh: Bảy với chín là... là...
Hiền
Sĩ: Mấy?
Ngọc
Anh: Mười lăm.
Hiền
Sĩ: Cộng sao mà mười lăm? Con nầy muốn tao bộp tai bể đầu?
(Ngọc
Anh mếu và tay dụi con mắt)
Hiền
Sĩ: Bây giờ mầy ngồi đó khóc hay sao?
Trần
Thị Oanh: Cha nó nạt om sòm, con nó hết hồn, nó học sao được?
Hiền
Sĩ: Đồ ngu quá, không rầy sao được?
Thị
Oanh: Thủng thẳng mà dạy nó chớ!
Hiền
Sĩ: Mẹ nó tài nói giỏi hoài. Đâu mẹ nó dạy thử nó, rồi coi có nóng hay không?
Thị
Oanh: Đã biết mình dạy con mình thì sao
mình cũng muốn nó mau giỏi. Hễ nó không hiểu thì sao mình cũng giận. Vậy mình
mà biết dằn lòng, hòa huỡn mà dạy nó được mới hay chớ!
Hiền
Sĩ: Hứ! Thánh Hiền xưa còn phải nóng, lựa là tôi. Hèn chi cổ nhơn diệt tử nhi
giáo cũng phải.
(Chú Bếp
hầu ngoài cửa bước vô xá thầy thông và thiếm thông)
Hiền
Sĩ: Có chuyện chi hay chú Bếp?
Bếp hầu:
Dạ, bẩm thầy quan lớn chánh cho mời thầy.
Hiền Sĩ:
Ủa! Chúa nhựt mà có chuyện chi hay chú?
Bếp hầu:
Dạ, bẩm tôi không biết. Quan lớn mới được cái giây thép rồi hối tôi đi mời thầy
đây.
Hiền
Sĩ: Quan lớn ở nhà tư hay là nhà hầu?
Bếp hầu:
Bẩm trên nhà tư.
Hiền
Sĩ: Ừ! Thôi chú về đi, để tôi thay đồ rồi tôi lên sau.
Bếp hầu:
Bẩm thầy tôi về, bẩm cô tôi về.
(Bếp hầu
đương bước ra, Hiền Sĩ đương đứng dậy bước vô buồng thì màn kéo lại)
Với những
lời đối thoại như vậy và cách diễn xuất mới lạ, những vở kịch do nhóm “Cải
Lương Kịch Xã” trình diễn đã mau chóng được mọi người chấp nhận. Tuy nhiên, ta
cũng phải thừa nhận rằng cũng nhờ có trận thế chiến lần thứ nhất nên mới có nhu
cầu lạc quyên giúp đỡ cô nhi quả phụ trong trận chiến, những hội đoàn như hội
Khuyến Học, hội Nhà Báo mới có cơ hội trình diễn những vở kịch mới để quảng bá
trong quần chúng. Sau này, khi nhắc đến Hồ Biểu Chánh, người ta thường nhớ tới
ông với tư cách là một nhà văn, nhà báo mà quên một điều là ông cũng là một
trong những kịch tác gia tiên phong trong việc Việt hóa bộ môn kịch nghệ của
Pháp. Hồ Biểu Chánh cũng đã đóng góp nhiều trong công cuộc “cải lương” nghệ thuật
sân khấu miền Nam khi tham gia cuộc quốc trái lần thứ tư vào năm 1918. Trong cuộc
quốc trái đó, không những Hồ Biểu Chánh đã đóng một vai trong tuồng “Pháp Việt
Nhứt Gia” với lối trình diễn mới, ông còn cho trình diễn vở kịch nói “Phú Nhi
Háo Nghĩa” do ông sáng tác để giới thiệu một loại nghệ thuật sân khấu mới lạ
cho người dân vùng Nam Kỳ lục tỉnh. Bên cạnh Hồ Biểu Chánh, công của đốc phủ Lê
Quang Liêm cũng không nhỏ khi ông cho lập nên “Cải Lương Kịch Xã” để diễn những
vở kịch mới, mở đường cho sự ra đời của nghệ thuật sân khấu “Cải Lương” sau
này.
Nguyễn Tuấn Khanh
----------------
[1]
Nguyễn Tuấn Khanh, Bước Đường Của Cải Lương, California-USA, Viện Việt-Học,
2014, trang 83.
[2]
Opéra = Nhạc kịch, Opérette = Ca kịch, Comédie = Hí kịch
[3] Lê
Quang Liêm - Hồ Biểu Chánh, Vì Nghĩa Quên Nhà, Saigon, Imprimerie Moderne S.
Montégout, 1917.