Hồ Trường An
BÈO BỌT
LTS: Blog Hồn Trẻ 20 xin đăng lại truyện ngắn Bèo Bọt của nhà văn Hồ Trường An, để tưởng nhớ tác giả, một ngòi bút Nam kỳ lục tỉnh với văn phong "độc nhất vô nhị", kể ra chi li tỉ mỉ, rất... Bà Già Trầu, nhưng khéo léo lồng tinh thần nhân bản, tư tưởng Phật giáo vào trong truyện.
Xin mời đọc dưới đây, Bèo Bọt, truyện ngắn của nhà văn Hồ Trường An.
Năm
nay ông Nhưn Giáp cảm thấy mình mỏi mệt và yếu sức lắm rồi, nên bàn với vợ:
–
Chắc là tôi khó thể theo nghề thương hồ nữa. Vợ chồng mình hãy còn một ít vốn
liếng, nên thu xếp về Đạo Thạnh. Bà nên mua một con heo nọc đi bỏ giống kiếm ăn
qua ngày. Còn tui trở lại nghề thiến heo, chắc cũng không đến nỗi chết đói đâu.
Bà
Nhưn Giáp nghiến răng:
–
Tui đã thề với má tui là không bao giờ tui trở về Đạo Thạnh. Nay ông ứng bà
hành gì mà ông lại có ý nghĩ kỳ cục đó? Thà tụi mình tấp vào xứ khỉ ho cò gáy
nào đó để “trụ” còn hơn là quay về cái xứ Đạo Thạnh bạc bẽo đó?
Bà
nguýt chồng rồi lần ra trước mũi ghe mở khạp gạo xúc gạo nấu cơm. Chiều nay ghe
chở than củi của hai vợ chồng đã đến chợ Cái Răng thuộc tỉnh Cần Thơ. Họ mua
than ở U Minh Thượng lần hồi về đây. Bà vốn thực tế. Ngoài việc chở than bà còn
mua thuốc cao đơn hườn tán, bán dọc đường. Đã gần hai mươi năm qua, hai vợ
chồng sống nghề thương hồ. Họ mua đi bán lại đủ thứ loại hàng hoá: lúa than,
mắm, lá chầm, đồ gốm, mía… Hai mươi năm trước, cả hai sống bằng nghề buôn theo
gót du canh, theo nghĩa là đoàn người khẩn hoang đến từ địa danh hoang vu này
đến địa danh khỉ ho cò gáy khác. Đoàn người khẩn hoang kia đốn tràm, đốt sậy
làm rẫy, làm ruộng, lập vườn,… Cuộc đất vừa hình thành có khách trú tới mở tiệm
tạp hoá, tiệm trà, tiệm trồng răng vàng, tiệm bán đồ sắt…
Đạo
Thạnh là một làng nằm gần Ngã Ba Trung Lương thuộc tỉnh Mỹ Tho, nổi tiếng về
mận hồng đào, một loại mận màu hường lợt nhưng không ngọt bằng mận da người.
Đạo Thạnh cách ga xe lửa Trung Lương một cây số, cách Châu Thành tỉnh Mỹ Tho
bốn cây số. Cách đây ba mươi năm, có lần bà Nhơn Giáp theo về Đạo Thạnh. Chỉ về
quê cũ một lần thôi mà tâm tư bà còn ê ẩm cho tới bây giờ.
Số
là bà Tám Liệu, má của bà Nhơn Giáp vốn là người làng Đạo Thạnh hồi mười sáu
tuổi theo cô Hai Ngọc Loan, con bà Thông Đàn về Vĩnh Long vì cô Loan lấy chồng
xa, cần có người tớ gái tâm phúc để đỡ đần tay chân và bậu bạn sớm hôm. Chồng
cô Loan là thầy Ba Phương, con ông Hương Cả Thành mới hai mươi tuổi mà đã có
tương lai sáng sủa. Thầy làm Thông Ngôn cho quan Chánh Chủ Tỉnh người Pháp ở
Vĩnh Long, được ông giúp đỡ để tiến thân vào làm trong Soái Phủ Nam Kỳ. Sau
mười bảy năm ở đợ, Tám Liệu không nghe cô Loan lúc đó đã trở thành bà Phủ
Phương, tính chuyện lứa đôi cho mình. Tám Liệu dan díu với Hai Báu, làm thợ rèn
trong làng, có chửa, bị chủ đánh đập rồi đuổi đi. Tám Liệu sống nghèo khổ với
Hai Báu ở trong lò rèn bên sông Cổ Chiên; mãi đến khi con Tý (tức bà Nhưn Giáp
bây giờ) lên mười tuổi bà tính về thăm Đạo Thạnh một chuyến. Hai Báu can vợ:
–
Đi xa làm ăn có khá giả thì khi về thăm quê, xóm giềng cũ mới trọng vọng mình.
Má nó bỏ xứ suốt 27 năm rồi, người thân thuộc lớp chết, lớp tứ tán đến nơi
khác, còn ai đâu mà về thăm? Lại nữa, má nó về Đạo Thạnh chẳng có một phân vàng
nào đeo, chẳng có quần hàng áo lụa để diện thì về đó ai mà thèm chứa?
Bà
Tám Liệu không nghe dắt con gái lên đò máy về Đạo Thạnh. Bà chỉ có bộ đồ vải
xiêm đen bóng lớp hồ gọi là tươm tất. Tai bà đeo bông chuỗi hỗ phách, cườm tay
đeo chiếc huyền. Cô con gái mặc chiếc áo vải in bông đã cũ, quần vải ú. Đúng
như lời Hai Báu tiên đoán. Dân làng Đạo Thạnh hầu hết không ai nhìn ra bà Tám
Liệu. Có vài chỗ bà con xa lạ lại thấy bà ăn mặc lôi thôi tỏ ra lợt lạt không
thèm mời ăn trầu uống nước chứ đừng nói là mời ăn cơm. Buồn tủi quá, bà Tám
Liệu mua bánh bò, bánh ít và nhang đèn tìm đến mồ mả cha mẹ cúng vái rồi dắt
con ra ga xe lửa Trung Lương ngủ đỡ một đêm, để sáng sớm cả hai đến Ngã Ba
Trung Lương đón xe đò về Vĩnh Long.
Cô
Tý lớn lên được cha mẹ gả cho một anh kép hát bội tên Giáp cũng xuất thân từ
Đạo Thạnh. Kép Giáp mặt mũi khôi ngô, nhưng đến tuổi 30 thì hư tiếng, phải làm
kẻ nhắc tuồng cho đào kép, mà người trong nghề gọi là Nhưn… Nhưn Giáp đêm đêm
đứng ở cánh gà nhắc tuồng cho đào kép mãi đâm chán nên bỏ đi làm nghề thương hồ
khá hơn…
Ba
mươi năm thấm thoát trôi qua.
Giờ
đây chiều xuống êm đềm. Bên kia sông, sát bến nước là chỗ phơi lưới cá, có
chiếc vó vừa cất lên. Sau chỗ phơi lưới cá là chiếc lò gạch nóc tròn, màu gạch
đỏ rực trong ánh hoàng hôn. Bà Nhưn Giáp đợi cơm sôi, sẵn mẻ than nướng mấy con
khô sặc sửa soạn dọn mâm nhậu cho chồng.
Cũng
đã từ lâu khi thấy cảnh vợ chồng không con không cái mà cứ trôi nổi bình bồng
trên chiếc ghe thương hồ hoài, bà cũng tự hỏi, rồi đây cả hai chết dọc đường
thì thi thể tìm đâu ra miếng đất an táng? Bà cũng tự giận mình, hồi 40 tuổi mà
không chịu nuôi một đứa con để cậy nhờ lúc tuổi già bóng xế.
Ông
Nhưn Giáp hiện giờ có một người em gái tên là cô Ba Ất, đi tu từ nhỏ, có lập
một cái am nhỏ ở làng Lộc Hoà tỉnh Vĩnh Long. Vợ chồng ông Nhưn Giáp hễ làm có
tiền, sắm vàng rồi gửi cho em, tính đến nay cũng súc tích được mười bảy lượng
vàng rồi. Ông bà không dám lận tiền trong mình vì trên bước đường thương hồ dẫy
đầy trộm cướp. Sư bà Diệu Pháp, pháp danh của Ba Ất đã bao phen khuyên anh chị
nên “trụ” lại bất cứ một địa danh nào thích hợp, rồi cất nhà rồi lần hồi
buôn bán, sắm vườn, có cơ ngơi vững chắc để gởi nắm xương tàn về sau. Ông Nhưn
Giáp sực nhớ đến chuyện lũ voi rừng già, dù có kiệt quệ thế mấy, mà khi gần
chết cũng tìm về cho được chốn bỏ thây của đồng loại mình để xương cốt và cặp
ngà của mình được gần xương cốt và cặp ngà của đồng loại.
Dù
sao ở Đạo Thạnh ông Nhưn Giáp cũng còn một mảnh vườn hai sào đất, giáp với vườn
làng (tức là vườn thuộc về ban Hương Chức Hội Tề), ở đó có phần mộ cha mẹ ông.
Bấy lâu hai sào đất đó, ông cho đứt một đứa em bà con nhà chú để hắn trồng cây
đinh hương cân bán cho tiệm thuốc bắc cùng trồng khoai từ, khoai môn, khoai sọ.
Tuy
ghét làng Đạo Thạnh, tuy thấy chồng lẩn thẩn chưa chi mà tính việc hậu sự,
nhưng bà Nhưn Giáp cũng cảm thấy kiếp sống thương hồ phải chấm dứt trong vòng
năm tới. Gặp trời lạnh, trời ẩm ướt các khớp xương bà đau nhức, lòng ngực như
chứa sa mù đặc sệt khiến cho hơi thở của bà khò khè.
Ông
Nhưn Giáp ngồi trước mũi nghe nhậu một mình cho tới lúc bóng trăng trồi lên
khỏi ngọn bần ven sông Bassac ba sào. Trong khoang ghe, bà Nhưn Giáp thắp ngọn
đèn dầu mỡ cá, rồi lấy chiếc tượng sành đổ vào đó một ít cơm nóng và rưới một
muỗng nước cá kho sền sệt. Vậy là xong bữa ăn tối. Cơm xong, bà giăng mùng đi
ngủ sớm, trong lúc ông lấy cây đờn cò kéo ò e những bản Xuân Nữ, Tây Thi, Văn
Thiên Trường…
Trong
mùng, bà Nhưn Giáp chạnh nghĩ tới những đoạn đời tha phương cầu thực: những
gánh hát nhỏ di chuyển bằng ghe, những kẻ du canh, những khách thương hồ. Có
một hôm nọ, cách đây bốn năm ông Nhưn Giáp bán trúng kỳ dưa hấu lời năm mươi
phần trăm số vốn, nên đưa vợ đi ăn ở một tiệm cơm Tàu tại chợ Vang Xáng, thuộc
huyện Hoả Lựu, tỉnh Rạch Giá. Đây cũng có thể gọi là cao lâu, vì nó có căn gác
rộng, mái lợp ngói móc, trần gỗ.
Ông
mặc bộ bà ba vải xiêm đen, vai quàng khăn rằn tất cả đều mới tinh. Bà mặc chiếc
áo xuyến trắng, quần lãnh trơn, tóc chải láng, đeo một vài món nữ trang bằng
vàng pha đồng, đi guốc sơn đen mới. Cả hai mạnh dạn bước lên lầu, gọi phổ ky
đem món ăn lại. Bên cạnh bàn hai ông bà đã có một chiếc bàn sắp sẵn một vài dĩa
thức ăn, cơm canh cùng nhạo rượu và 4 ly uống rượu.
Hai
vợ chồng ông Nhưn Giáp bồi hồi nhìn nhau. Cả hai đều biết người đàn bà đó đang
làm đám giỗ cho người thân; nhưng vì chưa về nhà kịp (hoặc vì không có nhà) nên
đành cúng kiếng ở tiệm ăn. Cảnh tượng gợi lên kiếp người bèo bọt, cái số phận
cô độc của một vài người đã từng quen biết với cặp vợ chồng không con này. Giữa
bàn là một bát nhang, có cắm sẵn nén nhang huyền đàn tuôn khói nghi ngút. Một
người đàn bà tuổi ngoại tứ tuần, ốm tong teo, lưỡng quyền nhô lên cao đang khấn
lạy, nước mắt tuôn lai láng. Sau khi rót rượu ra cúng, bà ta còn khóc thêm chặp
nữa và thu mình trong góc căn lầu… chờ nhang cháy hết, cầm đũa ăn cơm.
Vốn
tò mò, bà Nhưn Giáp muốn hỏi người đàn bà rằng: “Cô giỗ ai đó?” Nhưng
ông chồng vừa thoáng thấy vẻ tò mò của vợ, vội vàng nắm áo kéo bà lại. Theo
ông, chuyện muốn biết người được giỗ cúng là ai không cần thiết. Bà vợ ông có
thể đoán ngược, đoán xuôi mà vẫn thấm thía cuộc đời bèo bọt như thường. Quả
vậy, hôm đó trở về ghe, bà Nhưn Giáp khóc cả buổi. Ông cũng không biết phải
khuyên can, an ủi bà cách nào? Từ lâu, cảnh già không con, cuộc sống bềnh bồng
làm cho vợ chồng bao phen suy nghĩ, và càng lúc nó trở thành một ám ảnh không
nguôi, một ám ảnh vằng vặc. Thế mà cả hai không ai dám nói ra. Vì cả hai vẫn
còn có ảo tưởng mình khoẻ mạnh, nếu không đeo đuổi nghề thương hồ thì biết làm
nghề gì hơn? Nhưng giờ đây cảnh cúng giỗ dọc đường xuôi ngược nhắc nhở họ nên “trụ”
lại, và vô tình nó làm cho hai vợ chồng cảm thấy mình yếu đi nhiều, sức khoẻ
không còn vững vàng như hồi năm ngoái.
Rồi
đó một hôm ghe chở lúa của cặp vợ chồng thương hồ kia phải ghé nhà thờ Cái
Răng, vì hôm đó bà ngã bịnh ban cua lưỡi trắng. Vị Linh Mục nhân từ khuyên ông
đưa vợ đi nhà thương ở Cần Thơ điều trị. Chừng bà bình phục, ông vẫn neo thuyền
dưới bến nước nhà thờ. Dù là đạo Phật nhưng vì mến Linh Mục, ông Nhưn Giáp vẫn
dự lễ Chúa Nhật vẫn mang hoa huệ dâng Đức Mẹ, và vì hiếu kỳ ông chú tâm nghe
lời Cha giảng Kinh. Và đau khổ cho ông biết bao, bao nhiêu lời giảng đạo bay
vuột qua khỏi trí óc của ông, chỉ trừ một câu: Chồn cáo có hang, chim có tổ,
con người không có chỗ gối đầu.
Ông
Nhưn Giáp bao phen rùng mình khi nghĩ tới cái quê hương vĩnh viễn của con
người. Sống gửi thác về… Nếu về dưới âm phủ địa ngục thì buồn quá để rồi lại
sống gởi trên trần gian bao nhiêu lượt nữa? Đi về rồi lại đi về. Vậy thì cõi âm
phủ đâu phải là quê hương vĩnh viễn của con người? Nếu nó vĩnh viễn thì đâu có
vụ đi đi về về, đâu còn cái vụ “sống gửi thác về?” Lại nữa cõi âm là cõi
của kẻ bị trừng phạt, cõi u tối đầy tiếng rên than. Vậy thì quê hương đau khổ
đến vậy sao?
Cô
Ba Ất, em của ông Nhưn Giáp vốn sinh trưởng ở Đạo Thạnh, sau theo cha mẹ về Cầu
Dài, một ngoại ô của tỉnh Vĩnh Long cách thành phố con rạch Long Hồ. Vậy mà, có
lần theo cha mẹ đi Lộc Hoà mua bán, khi đi ngang doi đất có có cây gừa, cây đa,
cô bỗng bảo:
–
Hồi đó tui ở đây.
Bà
mẹ mắng:
–
Đồ khùng, mày ở hồi nào tới giờ theo vợ chồng tao ở hai nơi là Đạo Thạnh và Cầu
Dài… Mày ở hồi nào?
Cô
Ba Ất rơi nước mắt:
–
Tui là con gái ông Hương Cả Bình. Hồi đó tui tên Hoà.
Cha
mẹ ông Nhưn Giáp kinh hoảng và ngạc nhiên tột độ. Cả hai dọ hỏi thì mới biết
Lộc Hoà có gia đình ông Hương Cả Bình. Ông này có cô con gái út tên Hoà, chết
hồi 18 tuổi.
Cô
Út khẳng định:
–
Tự dưng qua đây, tui nhớ lại quê nhà hồi kiếp trước.
Và
cô than thở:
–
Ba má nghĩ coi, kiếp trước tui có một quê hương, kiếp này tui có hai ba quê
hương. Con người không có chỗ “trụ” vũng chắc, muốn ở yên không được, cứ
trôi nổi hoài. Thôi xin ba má tha tội bất hiếu cho tui, tui muốn ở đây tu hành.
Vì ở đây có am sư cô Diệu Mãn.
Dầu
có ráo nước miếng khuyên lơn, nhưng vì thấy con gái quyết chí xuất gia nên đành
để cô Ba Ất đến am Thanh Liêm tu hành.
Tối
nay, trong cơn gió sông hiu hiu, dưới ánh trăng bạc nhược lọc qua lớp sa mù ẩm
đục, tự dưng ông Nhưn Giáp nhớ lại ánh đèn dầu chong dưới mái am. Cô Ba Ất giờ
đây trở thành Sư Bà Diệu Pháp, tu hai pháp môn Thiền Tông và Tịnh Độ – Thiền
Tịnh Song Tu. Tết năm ngoái, vợ chồng ông có về Lộc Hoà thăm Sư Bà. Mỗi khi
nhìn vầng trán cao sáng sủa đôi mắt hiền lành của em, ông Nhưn Giáp ôn lại
chuyện tiền kiếp của Sư Bà. Ông không tin rằng em mình bịa đặt. Làm sao ai có
thể cắt nghĩa cái hiện tượng nhớ lại kiếp trước của em ông? Tai mắt con người
có giới hạn, làm sao thấy xa và nghe xa trên cõi trần, huống hồ gì tới chuyện tiền
kiếp? Nhưng nhà ông Hương Cả Bình ở Lộc Hoà còn đó. Sự thác sanh của cô Hoà vẫn
có thiệt. Làm sao một kẻ chưa từng đi Lộc Hoà bao giờ như em gái ông lại biết
được? Lại nữa, em gái ông khi đến nhà ông Hương Cả Bình còn chỉ cho người đào ở
gần hông nhà, dưới đám cây bồ công anh, gặp một cái chén da rạn, một cái dĩa
quả tử mà hồi xưa cô Hoà đã chôn lén.
Quê
hương bao kiếp trước. Quê hương kiếp này. Quê hương bao kiếp sau. Đó là chỉ nói
quê hương trên cõi trần. Lại còn quê hương vào lúc “thác về” tức là cõi
âm phủ. Thì ra con người có quê hương thật sự bao giờ đâu! Phải đi đi về về
suốt qua hai cảnh giới. Hồi còn mạnh khoẻ, còn hăng hái bán buôn, còn say mê
cảnh sông hồ, chưa bao giờ ông nghĩ tới chuyện sống chết luân hồi. Nhưng, lúc
sức lực cạn vơi, và sau bao năm xuôi ngược trên sóng nước, tự dưng trong cõi
sâu thẳm của tâm linh ông bỗng loé ra một tia sáng bạc nhược, nhưng cũng đủ cho
ông biết rằng: Ngay trên cõi tạm này là cõi trần gian, có mấy ai suốt đời ở một
nơi cố định? Dù vui hay khổ về chuyện xê dịch, nhưng đến lúc già yếu, ai cũng
phải tìm cho ra một chỗ “trụ”. Chuyện đầu thai, chuyện luân hồi, dù chưa
có ứng nghiệm, dù tin hay không tin, nhưng ông đủ thấu hiểu rằng con người sinh
ra đời chẳng phải là một tình nguyện, mà con người như một mảy lông ném vào cơn
vận chuyển không ngừng nghỉ.
“Chồn
cáo có hang chim có tổ, con người không có chỗ gối đầu?”
Đã bao lần, ông Nhưn Giáp lặp lại câu đó để rồi ngậm ngùi thương xót cho kẻ
chết dọc đường, để rồi thương cho lũ voi khi gần chết cố gượng sức lết về hang
động của tổ tiên, đồng loại để gửi ngà gửi xương.
Sau
khi bán than cho các vựa than ở Cái Răng, ở chợ Cần Thơ, ông bà Nhưn Giáp lần
hồi về đến chợ Vĩnh Long. Dọc đường họ bán thuốc cao đơn hườn tán, bán dây
chuyền, kim hát máy, bán cuốn bài ca và các tuồng thu tranh trong dĩa nhạc, bán
luôn cả dĩa nhựa.
Ông
nói với bà:
–
Kỳ này, vợ chồng mình mò mẫm đi Lái Thiêu mua lu hũ, chén sành, liễng kiếng để
bán dạo khắp vùng Tiền Giang. Mình bán hết chuyến chót thì năm cùng tháng tận, rồi
về Lộc Hoà ăn Tết với Sư Bà. Ra Giêng mình phải dọ hỏi ruộng đất, hoặc chỗ nào
có thể “trụ” để sanh sống… trên bờ thì mua.
Bà
vợ nói:
–
Ông có cái tật… lên bờ nhớ sông, xuống sông nhớ bờ thì còn nước non gì. Tui còn
nhớ lần ông về Lộc Hoà thăm Sư Bà. Ông nói rằng ông là cá, lên bờ phát ngộp thở
như cá mắc cạn.
Về
đến chợ Vĩnh Long mà không có hàng hoá thuộc loại thổ sản thì cũng ngặt cho bà.
Nhưng bà biết ông thích gặp các tay thương hồ để mặc sức mà đàm đạo chuyện sông
hồ, chuyện anh hùng bốn bể, từ chuyện trên nguồn có kẻ đốn củi hầm than tới
chuyện ngoài vàm khơi có kẻ chài cá.
Đã
ghé bến chợ, bà Nhưn Giáp đi viếng chợ, một một con cá chẽm, một con cá bông để
làm món nhậu cho chồng. Khi về tới ghe, bà đã thấy ông chồng đang quạt than
nướng khô cá gộc, khô cá thiều. Mùi khô thơm ngát bay toả khắp dãy ghe đậu từ
phía bến nước chợ cá tới bến Chú Cụt. Cạnh ghe thương hồ của vợ chồng bà là ghe
chở khô mắm Cà Mau. Chủ ghe giữ phần đà công (lái ghe) còn đứa cháu giữ chân
trạo phu. Ghe mắm đã bán hết cho vựa bà Tám Phuông bên kia bến chợ, tức là về
phía bến Cầu Dài, gần dãy trạm lá chầm. Nhưng còn khô cá sửu, khô cá lăng sình
thì chủ ghe bán lẻ ở tại chợ cá Vĩnh Long.
Bà
Nhưn Giáp vừa thấy ông Bảy Tịnh chủ ghe mắm và khô đang lui cui luộc trứng vịt
lộn, trứng ung thì biết chốc nữa đây sẽ có cuộc nhậu nhẹt… Ngoài ông Bảy Tịnh
còn có ông Ba Chất chủ ghe lươn, ông Năm Bảnh chủ ghe đồ gốm… Thế cũng đủ cho
tiệc rượu thêm xôm tụ. Các tuý tửu phiên vương kia có thể nhâm nhi cả lít rượu
đế. Bà Nhưn Giáp xưa kia vốn không ưa không ghét chuyện nhậu nhẹt của chồng.
Nhưng từ một năm nay, bà thích dỏng tai nghe ké chuyện kể của các tay thương
hồ. Bà càng lúc càng muốn chia sẻ tâm sự với họ, nên bà thường tham dự tiệc
nhậu, để có dịp hỏi han họ chuyện nọ chuyện kia.
Chiều
tối. Thành phố lên đèn. Vì bên sông đầy rác rến, lại gần cầu tiêu chợ, nên ai
muốn tắm rửa thì chèo ghe đến khúc sông để tắm gội nấu cơm và xách nước đổ vào
hũ, vào khạp, lóng phèn cho nước trong để dành xài. Bà Nhưn Giáp lôi trong rổ
những trái cóc, những trái khế, những trái me xanh, rồi gọt vỏ cóc, và rửa khế,
me cho sạch, bày tất cả lên dĩa. Trái cây chua chấm mắm ruốc giã tỏi ớt cũng là
món nhắm độc đáo rồi. Bà xào nấu hai món nhậu bằng cá chẽm và cá bông rồi dọn
vào mâm lớn cho chồng.
Ông
Nhưn Giáp hướng về phía chiếc ghe mũi lá chầm, trên đó có chị đàn bà ngoài bốn
mươi mặt mày tiều tuỵ, mắt sâu hoắm, tóc tai biếng chải.
–
Nè thím Sáu Ách, thím kêu chồng thím qua ghe tui nhậu một phen.
Vợ
Sáu Ách hỏi:
–
Tụi nhậu ké được không anh Nhưn?
–
Có mụ vợ tui, thím tháp tùng qua nhậu cho vui.
Vợ
Sáu Ách nói:
–
Để tụi này chèo ghe qua bên An Thành tắm rồi lựa trái bần về ăn kèm với mắm cá
sặc chắc là ngon.
Chị
ta réo bà bán vôi bột đậu ghe ké bên ghe mình, mượn cục xà bông sả đi tắm gội
cho thơm tho. Bà Nhưn Giáp nghĩ thầm:
–
Con này biết… chuyện. Vợ chồng nó không tắm xà bông sả thì ai mà dám ngồi gần.
Bà
vừa chùi nồi, soong vừa cười chúm chím khi nhớ lại cái hôm đầu tiên gặp vợ
chồng Sáu Ách. Sáng hôm đầu tiên ngồi tại chợ Vĩnh Long bán khô, bà Nhưn Giáp
bỗng chột bụng, mắc đi cầu. Bà liền nhờ bà bán mắm ruốc kế bên coi chừng sạp
khô giùm mình và đi lẹ về phía cầu tiêu công cộng cất dựa bến chợ. Vừa xổ bụng
xong, thì bà nghe có tiếng cằn nhằn của người đàn bà ngồi dưới sàn cầu tiêu.
–
Hôm nay, vừa ra ngõ là mình gặp một chị đàn bà chửa nên mình xui tận mạng. Nãy
có ba ông, một bà vào đây tiêu chảy thì mình còn kiếm chác được gì đâu.
Thì
ra chị đàn bà chuyện nghề đi vớt phân thiên hạ, vò tròn bằng bụm tay, phơi khô
rồi bán cho mấy người Tiều (Triều Châu) chuyên nghề làm rẫy.
Đêm
đó trằn trọc mãi trong khoang ghe, bà Nhưn Giáp bỗng nghe ở ghe đậu cách ghe bà
ba bốn chiếc ghe có tiếng than khóc. Bà rủ ông chui ra ngồi đầu ghe nghe ngóng.
Trên trời trăng sáng vằng vặc. Thành phố vào nửa khuya hãy còn ồn ào. Nhưng
tiếng ồn ào ở xa văng vẳng mơ hồ vì ngược theo chiều gió chướng thổi lao xao.
Tiếng than khóc vì thuận chiều gió, đến tai đôi vợ chồng già rõ mồn một:
Người
đàn bà bỗng ngừng khóc đổi qua giọng the thé:
–
Hồi đó tui bảo anh đi tập hát cải lương. Anh nghe lời ông bầu gánh Rương Đen,
đi theo nghề hát bội. Giờ đây hát bội hết thời, không ai thèm coi. Gánh Rương
Đen rã tại Chợ Lách, may mà tui còn chút đỉnh tiền mua chiếc ghe để về đây vớt
phân thiên hạ. Vớt ba cái thứ thúi tha hoài, rồi chẳng biết ngày nào về quê
quán đây? Năm cùng tháng tận rồi mà mình chưa mua được chai rượu, con vịt để
dành ăn Tết.
Tiếng
người đàn ông lè nhè:
–
Tao biểu mày nín. Số tao là số bần cùng, dẫu có đi theo cải lương, thì với cái
giọng thùng thiết bể chắc gì tao được làm kép chánh đâu. Nghề hát bội là nghề
ông cha tao, nuôi các cô, các chú, các anh chị em tao đã hai đời rồi; có lẽ nào
tao phụ nó? Bộ mày tưởng hễ ai đi hát cải lương rồi cũng ngang hàng với Bảy
Nhiêu, Năm Châu, Tư Út hết hay sao? Có nhiều gánh cải lương đi hát ở miễu đình,
gặp lúc trời mưa thưa khách thì sáng hôm sau họ đi bắt cóc nấu cháo.
–
Thịt cóc coi vậy mà thơm tho, nói cho anh biết.
–
Ấy, mình vớt cứt sanh nhai chớ có ăn cứt đâu nà. Dầu sao đi nữa, mình cũng đắp
đổi qua ngày nhờ nghề vớt hạ tiện này. Mày chê nó thì mày ngu như ăn cứt.
Vốn
là nghệ sĩ, ông Nhưn Giáp cảm xúc lắm. Vào thập niên 30, các gánh cải lương
thuộc loại trung ban khi lưu diễn thì dùng ghe chài. Còn các gánh hát bội, gánh
tiểu ban chuyên lưu diễn ở làng, ở quận, thì dĩ nhiên lấy sông nước làm đường
di chuyển, lấy rạch con, kinh nhỏ để vào tận các làng hẻo lánh. Hồi xưa ông
Nhưn Giáp đi gánh hát Rương Vàng, chuyên diễn tại các miễu, các đình nằm dọc
trên rạch Long Hồ, trên sông Cổ Chiên. Gánh Rương Đen rã ba phen. Ông bầu phải
trở về nghề làm ruộng rẫy để rồi có đủ tiền, ông hội đào kép cũ dựng lại gánh.
Ông bầu cũng là một kép lão đóng vai Tỷ Can trong vở Mổ Tim Tỷ Can hay
thần sầu. Đã trót lâm đời nghệ sĩ, đã mắc nợ tổ nghiệp, ai mà rứt khỏi nghiệp
cầm ca dễ dàng?
Sáng
hôm sau, vợ chồng ông Nhưn Giáp tìm ghe người vớt cứt. Hỏi ra đó là Sáu Ách, em
của Hai Canh, mà Hai Canh là bạn chí thân của ông Nhưn Giáp khi cả hai cùng
thay phiên đóng các vai chính trên sân khấu Rương Đen. Không ngần ngại, ông
Nhưn Giáp lấy năm chục đồng trao cho Sáu Ách, mời hai vợ chồng qua ghe mình
dùng cơm, viết một bức thư cho Sư Bà Diệu Pháp, nhờ sư bà tìm cách giúp đỡ vợ
chồng Sáu Ách khi họ về Lộc Hoà.
Khi
các bợm nhậu bày tiệc thì bóng trăng tròn trịa đã nằm vắt vẻo trên dãy cây đen
thẫm bên kia cù lao An Thành. Riêng cậu Hai Chí Thành, cháu ông Bảy Tịnh không
biết nhậu. Cậu vốn ăn chay trường, nhưng cũng đến mâm chậu trái cây chua chấm
muối ớt để hóng chuyện sông hồ. Vợ chồng Sáu Ách được tắm gội bằng xà bông sả,
họ mặc nguyên bộ quần áo bằng vải ú còn mới thơm mùi long não.
Mấy
hôm rày, ông Năm Bảnh thèm thịt chó, nhưng ông Ba Chất không chịu bảo rằng:
–
Con chó vốn là loài thú vật gần gũi với con người, lại hết lòng trung tín với
người. Mình ăn thịt nó hoá ra mình ăn thịt thủ hạ mình hay sao? Thủ hạ của mình
có khi còn phản phúc nữa là… Còn con chó trước sao sau vậy?
Ông
Nhưn Giáp có vẻ yêu mến nể nang cậu Hai Chí Thành lắm. Khuôn mặt của cậu hiền,
cậu tươi cười nhưng không có hậu ý gì. Thần thái của cậu sáng rỡ. Hết màn trái
cây chua, cậu xin ly nước trà ngồi nhâm nhi hầu chuyện các bậc “trưởng
thượng”. Bà Nhưn Giáp đem dĩa bánh xôi vị mời cậu, và nhấn đi nhấn lại đây
là món bánh chay.
Các
bợm nhậu hết nói về huyền thoại, về truyền kỳ các cuộc đất mà họ đi qua, rồi đề
cập cách sinh hoạt các dân vùng khai hoang khẩn đất, về thổ sản. Mới đó mà đã
hết một lít rượu ngâm hoài sơn, thục địa và cam thảo. Bà Nhưn Giáp lấy thêm bốn
chai rượu nếp than màu nâu đỏ, đặc sền sệt khi rót ra thơm ngào ngạt. Từ ba
mươi năm qua, cuộc sống thương hồ đã làm cho tâm hồn bà phong phú, kiến thức bà
dồi dào, nhưng giờ đây ám ảnh về chỗ “trụ” đã có một chỗ đứng trong tâm
hồn bà, càng ngày càng lớn rộng, càng vững bền. Vợ chồng Sáu Ách sau khi vớt
phân thiên hạ, có thể tắm gội bằng xà bông sả là mùi xú khí bay đi, nhưng giấc
mộng trở về quê của họ làm sao mà tắt mất? Ông Nhưn Giáp có thể mượn rượu tiêu
sầu giải muộn, nhưng khi men rượu thoảng qua, ám ảnh về chỗ “trụ” càng
vằng vặc, càng sáng ngời… Còn bà, bà cũng mệt rồi, cần một “chỗ gối đầu”
để nghỉ ngơi.
Ông
Ba Chất đang lúc ngà ngà vụt tâm sự:
–
Bà con biết tại sao tui không ăn thịt chó không? Hồi đó tui sanh đẻ tại Tân Hiệp,
thuộc tỉnh Mỹ Tho. Tía tui làm nghề thuốc Nam, chuyên nghề sửa những người trặc
chân, nghề cắt giác. Tía má tui sanh đầu đuôi có hai anh em tui. Anh lớn tui
tên là Hai Chơn. Rồi một ngày nọ, có một người đàn ông xứ Quảng Nam từ Tân An
thả xuống, bán quế, kỳ nam, thuốc dán (tức là loại thuốc cao). Ông ta ăn nói
vui vẻ tính tình bãi buôi. Tía tui hợp ý với ông ta kết làm anh em, ổng nhỏ hơn
tía tui một tuổi làm nghĩa đệ. Dè đâu ông này tán tận lương tâm thấy má tui có
bóng sắc nên lén tía tui ve vãn má tui. Má tui cũng mê cái mã khôi ngô của ông
Quảng Nam, xiêu lòng. Lúc đó, tía tui mắc chứng bệnh phù thũng, không hiểu sao
biết được tự sự. Phẫn uất quá, vào lúc sáu giờ sáng, tía tui lết ra đường rầy
xe lửa Mỹ Tho – Sài Gòn cho xe lửa cán nát thây. Má tui sau một năm để tang cho
tía tui, chánh thức sống chung với ông Quảng Nam. Ổng bắt hai anh em chúng tui
đi chăn trâu mướn cho ông Hương Sư Kỉnh ở xóm Tre, cách xóm tôi hai cây số.
Thiệt tình, hai anh em tui lúc mới mồ côi cha, còn nhỏ quá đâu hiểu chuyện thương
tâm của tía tui. Lại nữa, trẻ con trong xóm hễ vừa mới lớn lên là đi chăn trâu,
ở đợ. Hai anh em tui được vợ chồng ông Hương Sư thương tình, cho ở ngoài chòi
khá rộng, cất giữa ruộng, có chõng tre, mùng mền, có nồi niêu. Anh tui có nuôi
một con chó Vá. Hai anh em tui coi nó như đứa em út trong nhà. Vì mồ côi, nên
hai anh em tui thương yêu, trìu mến nhau lắm. Không hiểu ai đó học lại chuyện
tự vận của tía tui cho anh tui nghe. Bắt đầu từ đó, ảnh tư lự, buồn bực lắm nên
thường đến chùa Kim Quang luôn. Đêm nọ, hai anh em lạnh quá vì vào tiết lập
Đông, cả hai ôm chặt nhau ngủ mà không đủ ấm. Ảnh đốt mẻ lửa ở chiếc cà ràng,
rồi than thở:
–
Ba à, mày thấy chuyện nhà mình thảm thiết lắm không? Lớn lên mày cũng đừng thèm
cưới vợ, sanh con làm gì? Đừng có nghĩ nối dòng, nối giống làm chi? Dòng mình
là dòng nghèo nàn, làm nghề lặt vặt, hoặc đi làm mướn ở đợ, có gì vẻ vang đâu
mà nối? Mà mày cũng đừng oán hận gì ông tía ghẻ tụi mình. Chẳng qua tại kiếp
trước, tía tụi mình có làm gì oan trái với ổng, nên kiếp này ổng báo oán.
Rồi
một hôm nọ, anh tui tìm về nhà mẹ và tía ghẻ, bảo rằng thôi không làm mướn. Tía
ghẻ tụi tui đánh ảnh thiếu điều nứt đít. Ảnh khóc:
–
Xin chú đừng giận con tội nghiệp. Con về đây để có chết được thấy mặt má con.
Con
chó theo ảnh, chồm lên táp vào cánh tay tía ghẻ tụi tui rồi chạy mất. Má tui
liền can gián và lấy muối xức vào vết roi cho anh tui. Đêm đó anh tui nổi cơn
nóng lạnh. Sáng ra mình mẩy ảnh đầy mụt đỏ. Ảnh bị trái giống và chết vì bệnh
oan nghiệt này. Tía ghẻ tui toan đi thưa làng nước, để đem xác ảnh thiêu ra
tro. Má tui khóc, năn nỉ ổng, vào nửa đêm bó chiếu thây ảnh rồi chôn gần chòi
tui. Tội nghiệp con chó Vá, cứ mỗi chiều nó ra mộ ảnh nằm rạp, rồi cất mỏ tru
lên từng hồi thảm thiết. Mấy cây ổi quanh chòi, cây nào do anh tôi trồng, tôi
cắt miếng vải trắng, gọi là để tang cho ảnh. Con Vá chỉ nằm dưới những tàn cây
mang mụn vải trắng. Rồi đó, liên tiếp ba ngày tui bị sốt rét, nóng mê man, nằm
lì trong chòi. Nhờ ông Hương Sư thương tình, mời thầy thuốc nên tôi mới gượng
ngồi dậy. Kỳ đó tui đau ban trắng, uống mỗi ngày hai gói cảm mạo phát tán. Con
chó Vá cứ quanh quẩn theo tui. Lúc đó, vào mùa Vu Lan, mưa Tháng Bảy cứ dầm dề.
Suốt ba ngày, tui không thấy con Vá. Đến khi mưa tạnh, thằng Ân, tên hầu trà
nước của ông Hương Sư đến thăm tôi, và cho tôi biết con Vá đã chết, xác nó nằm
úp trên mộ anh tui. Chuyện vẫn chưa hết đâu. Sáu tháng sau, ông tía ghẻ tui
phát điên vì nọc chó, cứ rống, cứ tru và như ngộp thở, le lưỡi thở hào hển. Ổng
chết. Đó là điều tui rất khổ tâm vì cái cảnh goá bụa của má tui, cảnh côi cút
của lũ em khác cha, sau hai năm cư tang cho ông tía ghẻ thứ nhất. Bà sống lận
đận với cái nghề mua thúng bán bưng ở ga xe lửa Trung Lương, ở chợ Bến Chùa.
Tôi bỏ nhà làng ra đi, để khỏi thấy mấy đứa em tôi bị ông tía ghẻ thứ hai hành
hạ. Ông này vốn ghiền rượu, hễ say sưa là ổng đánh má tôi và các em tôi còn hơn
kẻ thù. Năm năm sau má tôi qua đời. Các em tôi được người chú đem về Thủ Thừa
dạy. Tôi về xóm cũ, chỉ thấy nền nhà cỏ mọc. Sau đó, tôi ở chơi với bà con lối
xóm một tháng, thăm mộ tía má tôi, mộ tía ghẻ, và mộ anh tôi, cùng mộ con chó
có nghĩa, bồi đắp các ngôi mộ cho tử tế, rồi đi Thủ Thừa thăm các em. Từ đó
trên hai mươi năm, tôi vẫn sống đời chợ gạo sông nước, chưa có dịp nào về nơi
cố quán cả.
Bóng
trăng giờ đây đã lưng chừng trời. Ngoài vàm, một chiếc ghe giương buồm chạy về
phía Bắc Mỹ Thuận. Ông Năm Bảnh buồn rầu nói:
–
Tui bỏ quê chừng hai mươi năm, trở về thăm quê thì lớp người sanh trước tui rủ
nhau thăm ông bà tổ tiên. Điều đó chẳng nói làm chi. Còn những người đồng hành
với tui thì cũng đi tứ tán theo kiểu tha phương cầu thực; mà nếu kẻ còn ở lại
thì họ cũng già cả lẫn lộn. Tụi nhỏ mới tấn lên, nhìn tui một cách tò mò, ghẻ
lạnh. Quê của mình mà làm mình buồn tủi còn hơn quê người. Cảnh vật thay đổi
làm mình như lạc lõng ở rừng, ở hóc Bà Tó…
Nãy
giờ, cậu Ba Chí Thành yên lặng ngồi nghe các bậc “trưởng thượng” đàm
đạo. Cậu chỉ cười hiền, ánh mắt sáng ướt, môi cười chúm chím. Ông Nhưn Giáp
liền gợi chuyện với cậu:
–
Sao chú Ba? Nãy giờ, cháu chưa kể chuyện về quê quán của cháu cho các chú, các
bác cháu ở đây biết. Quê cháu ở đâu?
Cậu
Ba Chí Thành nhỏ nhẹ thưa:
–
Thưa các bác, các chú, bác Bảy của cháu chắc cũng đã kể qua cho các bác, các
chú quê quán của hai bác cháu rồi. Quê cháu ở làng Mỹ An cách tỉnh Vĩnh Long
mười lăm cây số. Cháu mồ côi cha mẹ hồi sáu tuổi. Bác Bảy cháu đi buôn, nên gởi
cháu cho Sư Bà Diệu Đức ở chùa Sơn Thắng nuôi dưỡng. Sư Bà dạy cháu học kinh
kệ, và cho học chữ ở nhà trường. Khi 15 tuổi, cháu rời Vĩnh Long, đi lưu học ở
Mỹ Tho, tới năm thứ hai chương trình Pháp. Vì thấy Sư Bà yếu quá, cháu trở về
chùa phụng dưỡng Sư Bà. Thiệt sự, Sư Bà là kế mẫu của má cháu, nhưng cháu
thương bà còn hơn là bà ngoại ruột. Trước khi viên tịch, Sư Bà muốn cháu đi đây
đó để kinh qua thế sự, trước khi trở về chùa tu lại. Mấy năm nay, cháu theo bác
Bảy đi thương hồ, có lẽ năm tới cháu trở về chùa, thọ giới sa-di…
Bà
Nhưn Giáp nói:
–
Vậy thì cậu còn có chỗ trụ; đó là chùa Sơn Thắng chớ gì?
Cậu
Ba Chí Thành vẫn giữ giọng ôn nhu:
–
Dạ thưa bác Nhưn gái, chùa ở đâu đối với cháu cũng vậy, cũng vừa là nơi tạm, mà
cũng vừa là quê hương. Quê hương chỉ là điều mê vọng, chỗ nào ở cõi Ta Bà này
cũng chỉ là mê vọng, như vậy thì chỗ nào cũng là quê hương cả. Quê hương thiệt
sự có chăng là do ở tâm mình mà thôi.
Ba
Chất giả bộ cung kính, xá dài cậu Ba Chí Thành:
–
A di đà Phật. Chí Thành Bồ Tát nói cao xa quá tui không hiểu gì hết trọi á. Còn
tui chỗ nào có bán rượu là quê hương của tui.
Cậu
Ba Chí Thành cười vui vẻ, chớ không cãi cho ra lẽ.
Đêm
đó, sau khi tiệc rượu dẹp đi, ai về ghe nấy, ông bà Nhưn Giáp vẫn trằn trọc.
Ông thì nhớ lại lời kể của ông Ba Chất mà thương cảm cho kẻ bỏ làng nước để
trốn tránh cái tuổi thơ đầy nước mắt của mình và ông thương luôn con chó nằm
chết bên mộ chủ. Ông cũng đã xa quê, bỏ lại cái chòi lá xiêu vẹo bên ven ao
cuối xóm, bỏ luôn con chó cái và bốn con chó con mới đẻ đầy tháng. May phước
con chó cái dắt con đến nhà một bà điền chủ nhơn đức, được bà nuôi luôn. Vậy
mà, mười lăm năm sau, tình cờ đi ngang quê cũ, ông có ghé lại thăm, bà con lối
xóm kể lại rằng chiều chiều khi bóng hoàng hôn nhuộm vàng một nửa mảnh cái ao,
con chó cái dắt con đến chỗ nền chòi xưa, cất tiếng tru lên thẳm thiết. Từ đó,
mỗi chiều, khi ghe đậu ở một bên sông nào, ông Nhưn Giáp cũng lắng tai nghe
tiếng cho tru để hoài niệm loài nghĩa thú kia. Nhưng đồng thời tiếng chó tru
lại thúc giục ông tìm cho mình một quê hương. Tiếng thúc giục đó có khi lẩn vào
tiếng gà gáy lẻ tẻ ở một thôn xóm vào buổi trưa lặng ngắt; tiếng gà trưa gợi
nên cảnh sống nơi thôn ổ trù mật, có tình luân lý, có kỷ niệm trong lễ thánh
hội đình.
Còn
bà, bà cũng không ngủ vì bứt rứt. Bấy lâu nay đành rằng bà thích chỗ trụ, nhưng
nhứt định chỗ trụ không phải làng Đạo Thạnh bên đường rầy xe lửa, gần Ngã Ba
Trung Lương. Bà cũng không thích nuôi heo nọc vì bà nhờm gớm cái mùi hôi hám
của nó. Ông bà kể như tuyệt tự, có lẽ một dạo ông làm nghề thiến heo, làm tuyệt
tự nhiều con heo nên lãnh cái quả xấu ngày nay vậy. Ai đời, ông Nhưn Giáp muốn
vợ mình gây giống cho heo, còn ông thì làm tuyệt giống loài heo bằng nghề thiến
heo, xây dựng làm chi rồi phá vỡ, ngẫm nghĩ có kỳ cục hết chỗ nói hay không?
Ông
Bảy Tịnh nhứt quyết cùng vợ chồng ông Nhưn Giáp vượt sông Cổ Chiên, sông Hàm
Luông để xuôi về miền Đông, đến Lái Thiêu mua đồ gốm và liễng kiếng. Liễng
kiếng là một thứ liễng làm bằng gương, trên mắt gương dài họ vẽ từng câu chữ
nho, có trang trí chung quanh rìa bằng hoa lá, chim bướm, dơi, rồng phụng, tiên
cô, tiên ông.
Vào
một buổi trưa, hai chiếc ghe tới một bãi hẫm, phía trên bãi hẫm là một vùng cây
trầm thuỷ như cây bần, cây đước, cây mắm, và trên nữa là rừng tre, đan chằng
chịt dây mây, dây choại, dây cóc kèng…
Nước
lớn dồn đầy sông. Sông quá lớn. Đứng bên này bờ sông nhìn qua bên kia, ông Nhưn
Giáp chỉ thấy một vệt cây đen thẫm chìm trong hơi nước mù xanh. Gió thổi lồng
lộng. Sóng dữ chồm lên từng lượn lớn như vồng khoai tràn vào bãi hẫm rồi rút đi
để lại bọt trắng lẫn bọt vàng ngàu vướn víu trên đám lác, đám lục bình.
Ông
Bảy Tịnh hỏi ông Nhưn Giáp:
–
Nè anh Nhưn, đây là đâu?
Ông
Nhưn giáp nói:
–
Đây là một khúc quẹo trên con sông Hàm Luông.
Trời
ơi, chưa có vượt qua sông lớn lần nào nên hôm nay ông sợ hãi vu vơ. Từ rừng
tre, tiếng gà gáy vang. Bình thường tiếng gà trong những thôn ổ tịch mịch vào
buổi trưa làm cho ông bồi hồi cảm khái. Còn tiếng gà gáy ở đây sao mà rợn óc.
Gà gáy từng chập, không dứt. Và trong cơn gió rào rào từ giữa sông, từ vàm biển
đưa lại, có những tiếng rít như tiếng roi mây hươi lên vun vút.
Ông
Bảy Tịnh hỏi:
–
Mình có nên vượt sông không?
Ông
Nhưn Giáp nhìn lên bầu trời không một gợn mây rồi bảo:
–
Hôm nay tốt trời, tuy có gió, nhưng không có giông. Ở sông lớn thì gió lúc nào
cũng lồng lộng, không bao giờ thoang thoảng như ở kinh rạch. Thôi thì mình vượt
sông cho sớm, để rút ngắn hành trình.
Ông
Nhưn Giáp điều khiển lái, bà Nhưn Giáp chèo ở trước mũi. Nhưng ghe bên kia thì
cậu Ba Chí Thành không làm trạo phu nữa mà giành làm đà công. Gặp sông dài sóng
dữ nầy thì phải điều khiển bánh lái một cách dẻo dai mới được.
Hai
chiếc ghe mạnh dạn ra giữa dòng. Nhưng lúc đầu thì sóng gối đầu từ giữa sông
tràn từng lượn vào bờ, nên ghe có thể nương theo từng lượn một cách nhẹ nhàng.
Nhưng tới gần giữa sông, ông Nhưn Giáp hét lên:
–
Trời ơi! Sóng lưỡi búa, sóng bạc đầu kìa.
Bà
Nhưn Giáp rụng rời. Sóng không di chuyển từng lượn nữa. Chúng trồi lên hụp
xuống một chỗ. Ghe không thể gối đầu để tránh cơn úp chụp của sóng nữa. Sóng
chồm lên như phủ nhoà chiếc ghe. Ông Nhưn Giáp nghiến răng chèo lướt phăng lên
đầu ngọn sóng. Bên kia ông Bảy Tịnh hét lên người cháu:
–
Chèo mạnh lên, hễ lướt qua vũng sóng bạc đầu là sẽ tới chỗ sóng gối đầu.
Bà
Nhưn Giáp chỉ còn biết niệm Phật, và với một bản năng mù mờ, bà ngước nhìn về
phía cậu Ba Chí Thành mà không hiểu tại sao? Có lẽ trong tiềm thức bà, hình ảnh
trầm tĩnh dịu dàng của cậu đã đem cho bà niềm thanh thản, an lạc vô bờ bến, nên
giữa lúc nguy biến như vậy, bà muốn bấu víu vào cậu để quên bớt cơn kinh hoàng.
Quả nhiên cậu Ba Chí Thành không hề đổi sắc mặt. Hai mái chèo của cậu vẫn quạt
vun vút để ghe vượt lên hai đầu ngọn sóng lớn như gò cát rồi hạ xuống chỗ trũng
của ngọn sóng gối đầu, và từ chỗ trũng sâu thăm thẳm ghe cậu gối đầu ngọn sóng
thứ ba và được sóng đưa nhẹ lên cao.
Bên
này lúc đầu vì không được bình tĩnh, ông Nhưn Giáp bị ba lượn sóng bạc đầu úp
lên ghe và phân nửa chiếc ghe ngập nước. Trong lúc đó cậu Ba Chí Thành gọi lớn:
–
Bác Nhưn hãy chèo theo cháu, vùng sóng gối đầu không xa, chèo nhanh lên bác.
Tiếng
gọi của cậu lanh lảnh và không bị gió quạt đi. Nó làm cho ông Nhưn Giáp cảm
thấy đôi tay mình thêm sức mạnh không thể ngờ. Đôi mái chèo ông đẩy mạnh nối
theo đuôi ghe cậu, rớt giữa thung lũng sông và kịp gối đầu lên ngọn sóng cao,
ghe không cần đẩy mái chèo mà tự động lên cao xa vùng sóng bạc đầu ác hiểm.
Dù
gió rít ghê rợn, nhưng hai chiếc ghe êm đềm thoăn thoắt theo từng lượn sóng đưa
vào bờ.
Khi
biết mình thoát hiểm, bà Nhưn Giáp gác chèo ngồi trước mũi khóc hu hu. Cậu Ba
Chí Thành vẫn cười điềm đạm bảo ông Bảy Tịnh:
–
Thưa bác, mình nên neo ghe nghỉ mệt rồi nấu cơm. Tối nay nếu có gió xuôi mình
trương buồm cũng không muộn.
Ông
Nhưn Giáp như mất hết nội lực, nói xuôi:
–
Tối nay là Mười Ba âm lịch, trăng bắt đầu tròn rồi đó.
Hai
chiếc ghe đậu sát bên nhau cạnh một bãi hẫm mọc đầy cây trầm thuỷ như cây vạt
sành, cây bần. Trong lúc bà Nhưn Giáp lẩm bẩm khấn vái tạ ơn Trời Phật thì cậu
Ba Chí Thành nhúm lửa nấu nước. Ông Bảy Tịnh thở hào hển, rồi khoe với ông Nhưn
Giáp:
–
Thằng cháu tui thì lúc nào cũng bình tĩnh, coi cái chết như không.
Bà
Nhưn Giáp hỏi cậu Ba Chí Thành:
–
Bộ cháu không sợ hay sao? Hoặc là cháu gượng làm tỉnh để cho tụi tui đừng mất
tinh thần?
Cậu
Ba Chí Thành:
–
Cháu không sợ – Giọng cậu đều đều và êm nhẹ – Sống hay chết cũng là mê vọng cả,
y như giấc chiêm bao.
Ông
Bảy Tịnh cười hề hề, lòng tràn ngập thương mến thằng cháu tài giỏi. Ông nói:
–
Ừ, sống gửi thác về.
Ông
Nhưn Giáp cằn nhằn:
–
Về âm phủ thì buồn quá. Nếu nói âm phủ là cái quê quán thiệt sự của mình thì
tui không ham rồi đa.
Cậu
Ba Chí Thành vẫn cười hiền:
–
Thưa đâu phải vậy, cõi trần, cõi âm phủ cũng chỉ là giấc mê mà thôi. Sống ở âm
phủ mà lòng mình không khiếp sợ, không đau khổ thì âm phủ còn đâu là âm phủ
nữa. Theo cháu, quê hương ở chính cái tâm mình.
Bà
Nhưn Giáp tuy không hiểu thủng những gì cậu Ba Chí Thành nói, nhưng bà cảm thấy
từ khuôn mặt, từ lời nói, từ dáng điệu, cử chỉ của cậu như toát ra một niềm an
lạc, dịu mát nên bà rợn ngợp, nao nao nên không muốn hỏi han lôi thôi gì nữa.
Ông Nhưn Giáp cũng như vợ, nhưng hơn vợ ở chỗ là ông như chập chờn nắm bắt được
cái ý nghĩa của câu nói của cậu Ba Chí Thành, tuy bắt hụt, nhưng lòng ông như trải
rộng ra êm đềm…
Bỗng
một chiếc ghe chở lúa thong thả bơi ngang qua. Đà công là một người đàn ông
ngoài bốn mươi tuổi, mình mẩy hơi gầy hơi khô, nhưng bắp thịt rắn chắc nổi cuồn
cuộn. Người đàn bà chèo trước mũi là một chị đàn bà cũng trạc tứ tuần, da bánh
ít, nhưng mặt mũi sáng rỡ, miệng nhai trầu chóc chách, mắt ướt lẳng lơ.
Đà
công hỏi lớn:
–
Bà con vừa vượt qua sông, phải không?
Ông
Bảy Tịnh nói:
–
Một lần vượt qua khúc sông nầy là tụi tui như chết đi sống lại.
Chị
đàn bà hỏi:
–
Trước khi qua sông, bà con có cúng kiếng gì chưa?
Bà
Nhưn Giáp nói:
–
Tụi tui nào có biết cúng ai? Đây là đâu vậy?
Chị
đàn bà chắc lưỡi:
–
Muốn qua sông mà bà con gan quá, không cúng kiếng Cậu, hèn chi cậu giận cũng
phải. Nhưng mà phước đức của bà con ở đây lớn lắm nên ghe mới không chìm. Nhưng
chắc chắn bà con phải một phen hồn phi phách tán.
Ghe
lúa ngừng lại. Người đà công nói:
–
Các bác và chú em đây xuôi về Mỹ Tho phải không?
Ông
Nhưn Giáp gật đầu xác nhận. Người đàn ông biểu vợ cắm sào rồi sửa soạn cơm
nước. Chiều dần xuống. Sóng gió vẫn cuồng nộ giữa sông. Chị vợ nói:
–
Các bác và chú em cho tụi nầy vầy đoàn với. Hễ tối nay, gió đổi chiều là mình
trương buồm cho ghe chạy đua, và mình kể chuyện tào lao cho đỡ buồn.
Ghe
lúa chật chội, ông Bảy Tịnh mời vợ chồng chú lái lúa qua chiếc ghe lườn có mui
của mình. Ba ghe cùng hùa đem gạo nấu cơm chung trong cái nồi đồng lớn của bà
Nhưn Giáp. Canh, cá kho, thịt kho dọn chung nên mâm cơm có vẻ ê hề lắm. Ông Bảy
Tịnh lấy chai rượu đế ra rót năm ly. Cậu Ba Chí Thành dùng cơm chay và uống
trà. Bà Nhưn Giáp hỏi chú lái lúa:
–
Đây là đâu vậy, chú?
Chú
lái lúa trợn mắt:
–
Trời ơi, bác không biết hay sao? Đây là khúc sông Dinh Cậu. Ai mà nghe nói tới
hai tiếng “Dinh Cậu” mà lại chẳng sợ ớn xương sống? Người ta đồn rằng
Cậu đây là con trưởng nam của Hà Bá cai quản sông Hàm Luông. Ở đây, khách
thương hồ lập miễu thờ Cậu. Miễu tuy nhỏ nhưng đẹp đẽ, cất theo lối thượng thực
hạ hư như kiểu nhà sàn, nóc có chạm cặp rồng tranh trái châu, phía trong cũng
chạm tứ linh, sơn son thếp vàng hực hỡ. Miễu tuy nhỏ nhưng làm dinh thự cho
Cậu. Khách thương hồ nếu muốn vượt sông thì phải lên dinh cúng cho Cậu cặp gà
ta và lên nhang đèn khấn vái Cậu thì cậu mới phù hộ vượt qua sông. Còn nếu
thiếu sót thì Cậu nhận ghe cho chìm. Bởi đó, ở rừng tre chung quanh “dinh”,
gà thả đầy lỉnh nghỉnh. Lâu ngày, từ gà nhà chúng biến thành gà rừng. Gà rừng
thì gáy bất kể sớm tối. Chúng sợ chồn cáo nên làm tổ trên nhánh tre nữa là
khác.
Người
vợ nói:
–
Dưới đáy khúc sông nầy, ghe chìm lểnh nghểnh còn hơn bến chợ Cầu Ông Lãnh ở
Thầy Gòn. Trước kia, khi muốn nhận chìm ghe ai, Cậu cho cặp ngỗng trắng ở thuỷ
phủ trồi lên. Nhưng tàu xà lang của Tây cậy có súng nên tụi Tây đâu thèm sợ
cậu, sợ ngỗng. Vừa thấy cặp ngỗng trồi lên là tụi nó bắn chết, máu ngỗng lan
rộng cả một khúc sông. Tuy vậy mà Cậu vẫn linh, ai khi dễ cậu là đố qua khỏi
sông mà bình yên cho được?
Cậu
Ba Chí Thành lắc đầu cười, nhưng không cãi cọ hoặc bàn tán ngang dọc gì hết.
Vừa thấy cái lắc đầu nhẹ của cậu, ông Nhưn Giáp chợt hiểu thủng lời nói lúc nãy
của cậu mà ông không hiểu tại sao mình lại hội được ý của cậu qua cái lắc đầu
kín đáo kia. Trước hết ông không tin huyền thoại ác ôn của khúc sông này. Mà
nếu Cậu có thật chăng nữa cũng là thứ tà thần, tham của hối lộ khách thương hồ.
Sắc mặc thanh thản của cậu Ba Chí Thành như thầm bảo cho ông biết rằng: vào
tuổi già bóng xế, bởi ông lo sợ thiếu quê hương, thiếu “chỗ trụ” để gửi
nắm xương tàn nên ông lo lắng, ông bất an. Thiệt sự, đâu phải chỉ tìm được “chỗ
trụ”, “chỗ gối đầu”, mà ông sẽ được an ổn hưởng cái tuổi già nhàn nhã? Về
Đạo Thạnh rủi ông gặp tai ương, gặp chuyện bực mình thì cái “chỗ trụ”, “chỗ
gối đầu” kia có khác gì âm phủ đâu. Mới hồi xế đây, nếu cuộc vượt sông thất
bại, ghe ông chìm đáy nước, vợ chồng ông chết trôi và bên kia cõi chết, vợ
chồng ông còn uất ức cái tai ương thì khổ biết bao. Nhưng nếu vợ chồng ông bình
thản đón nhận tai nạn, và nếu trong cõi chết cố tâm của cả hai vẫn tiêu dao,
bình thản, thì cõi chết còn hạnh phúc hơn “chỗ trụ”, “chỗ gối đầu” muôn
vạn lần.
“Quê
hương ở tâm!” Trời ơi, câu nói đó dễ hiểu mà khó,
khó hiểu mà dễ. Ông Nhưn Giáp cũng biết rằng mình chưa đủ cái lợi căn để nhận
diện cái quê hương ở nơi cái Tâm. Làm sao ông có cái tâm bình thản, vững mạnh
như cậu Ba Chí Thành. Bởi đó ông cần phải có “chỗ trụ”, “chỗ gối đầu”.
Nhưng mà “chỗ trụ”, “chỗ gối đầu” đâu cần phải là Đạo Thạnh nơi có mồ mả
tổ tiên ông, nơi đã từng chôn nhau cắt rún của ông. Ông đã hiểu rằng “chỗ
trụ”, “chỗ gối đầu” sẽ là bất kỳ ở đâu, có thể là cái am của Sư Bà Diệu
Pháp, chớ chẳng thu hẹp ở Đạo Thạnh, miễn là nơi đó ông tu tập để tìm được cái
tâm an lạc.
Đêm
đó, gió đổi chiều, trăng sáng vằng vặc. Ba chiếc ghe cùng trương buồm chạy trên
dòng nước lao xao sóng vỗ và lấp loáng ánh trăng.
Ngồi
giữ lái, ông Nhưn Giáp chưa bao giờ cảm thấy tâm hồn yên tĩnh và bát ngát như
giờ phút nầy. Ông cất tiếng hát. Bà Nhưn Giáp cũng cảm thấy bớt lo sợ về viễn
ảnh chỗ trụ. Bà chưa tìm được “cái quê hương ở nơi tâm” như cậu Ba Chí
Thành bảo. Nhưng nghe ông hát nho nhỏ dưới ánh trăng, bà cảm thấy một cách rõ
rệt mà không sao giải thích được là từ đây ông đã qua một giai đoạn sống mới
mẻ, không còn nghĩ tới Đạo Thạnh nữa. Tiếng hát của ông khàn đặc, run rẩy, yếu
ớt vì tuổi già, không phải là để làm sống lại thời kỳ ông đi lưu diễn gánh “Rương
Vàng” đâu. Nó là tiếng vang của tâm hồn ông trước giai đoạn mới của cuộc
đời. Bà cảm thấy mình sẽ nương tựa vào chồng để tìm ra cho được “Quê hương ở
tâm”, để khỏi nhọc công tìm kiếm “chỗ trụ”, “chỗ gối đầu” ở Đạo
Thạnh hay bất cứ ở đâu.
Bên
kia ghe lúa, chị vợ nhúm bếp nấu nước pha trà. Trăng sáng vằng vặc dễ làm thao
thức lòng người. Làm sao mọi người có thể ngủ trong lúc trăng đẹp trăng trong
như vầy? Ghe đi sâu vào khúc sông mà sóng bớt gào thét, và gió chỉ thổi lao
rao. Chị vợ lái lúa chõ miệng qua ghe ông Bảy Tịnh năn nỉ cậu Ba Chí Thành:
–
Hát huê tình, hát vọng cổ chơi, cậu em.
Cậu
Ba nói:
–
Tôi không biết hát huê tình. Nhưng tôi cũng đang muốn hát một bài kệ…
Chị
vợ lái lúa cười:
–
Trên trăng dưới nước cảnh hữu tình như vầy mà hát một bài kệ thì… mà thôi, miễn
là cậu hát rồi cậu thưởng thức theo cái đạo tâm của cậu, còn tui thưởng thức
theo cái trần tâm của tui. Cậu em hát bài… mặc kệ đi cậu.
Rồi
chị ỏn ẻn hỏi chồng:
–
Mình, em nói vậy mà có nhằm lẽ, không mình?
–
Nhằm lẽ lắm.
–
Nhằm lẽ mà hữu tình nữa, hén mình?
–
Ừ.
Bà
Nhưn Giáp bực cười mắng thầm: “Con này ngựa quá!”
Nhưng
lòng bà chẳng có gợn một chút ác cảm nào đối với chị ta. Bà lẳng lặng chờ cậu
Ba Chí Thành hát.
Cậu
Ba cất giọng lúc đầu hơi e ấp, sau giọng trở nên dạn dĩ và rõ ràng:
Trời
đất liếc hề ôi mênh mang
Chống
gậy thả rong hề ra chốn ngoại phương
Hoặc
đến đỉnh cao hề núi thẳm
Hoặc
vào nước sâu hề đại dương
Đói
ăn cơm hề do muôn nơi góp lại
Mệt
giấc ngủ hề chỗ chẳng quê hương
Hưng
thời thổi hề sáo không lỗ
Lặng
sẽ đốt hề giải thoát hương (*)
(*)
Dịch bài “Phóng Cuồng Ca” của Tuệ Trung Thượng – Sĩ Trần Quốc Tảng.
Hồ
Trường An
Nhà văn Hồ Trường An (người thứ nhất bên trái). Ảnh chụp năm 1999 tại buổi ra mắt sách "Chân Dung Những Tiếng Hát" của Hồ Trường An và "Những Bậc Thầy Của Tôi" của Xuân Vũ, tổ chức tại Đại học George Mason (Fairfax County, Virginia) Hoa Kỳ.