Saturday, 23 July 2022

Tác phẩm khác của Hồn Trẻ 20

Rau cỏ mùa mưa miền Tây

Phù Sa Lộc
 
      Đó là rau hoang dã, rau sạch thứ thiệt, phải là dân miền Tây đồng bằng sông Cửu Long chánh cống, lại ở trong đồng sâu mới biết. Một khi biết rồi, người ta sẽ không nguôi nhung nhớ nó, y như trai tơ nhớ trộm thương thầm cô thôn nữ duyên dáng một lần được cầm tay.
      Ông Trần Bá Phước, quê ở Cầu Kè (Trà Vinh) than thở: “Tôi khao khát được ăn một bữa năn xào tép rồi chết cũng đành”. Ông ca thán như vậy vì 60 năm qua, dù đã từng sống ở thành phố Trà Vinh, Sài Gòn, Cần Thơ và đã từng đi đây đi đó khá nhiều nơi nhưng ông chẳng hề nhìn thấy một cọng năn, nói chi đến việc được thưởng thức! Ông kể, năm ngoái, trong lần đi thành phố Bạc Liêu (Bạc Liêu) với người bạn bằng xe gắn máy, ngang qua khu chợ nhỏ, bất chợt nhìn thấy mấy người bán năn. Mừng như bắt được vàng, ông hối người bạn tấp ngay vào lề rồi mua ngay mấy bó không cần hỏi giá. Vậy là bữa sau, về nhà, ông chỉ dẫn vợ cách thực hiện món năn xào tép.
      Khi ăn, cả nhà đều khen ngon ngọt khiến ông nở lỗ mũi. Ông lại càng nở lỗ mũi khi vò một vài cọng năn, tước bỏ vỏ, cột chặt một đầu, thổi cho nó thẳng mình. Cháu ông khoái quá, tranh nhau chơi cái trò chơi ấu thời của ông hồi ở quê xưa.
      Ông Bùi Thế Lâm ở thành phố Bạc Liêu nghe ông Phước khoe bọc năn, cười lớn: “Năn bộp ở đây nhóc”. Rồi ông Lâm cắt nghĩa năn có hai loại: năn kim và năn bộp. Năn kim (còn gọi cỏ năn), cọng nhỏ, đầu nhọn như chông, màu xanh đậm, mọc ở vùng nước cạn nhiễm phèn vàng, có củ, là loại sếu đầu đỏ rất ưa thích. Thân năn kim cho trâu bò ăn hoặc ủ vồng dưa hấu mùa Tết rất tốt. Năn bộp cọng suôn, tròn to cỡ chiếc đũa bếp, màu nâu non, mọc vùng ruộng sâu nhiễm phèn bạc trong suốt mùa mưa. Gọi năn bộp vì nó rỗng ruột. Năn bộp có ở Bạc Liêu, Cà Mau nhưng nhiều nhất là ở Ngã Năm (Sóc Trăng). Ở huyện vùng sâu này, mùa mưa người ta bán năn bộp “đầy đồng”.
 

      Năn bộp mua về cắt phần ngọn già, phần gốc non dùng kim tây luồn tách bỏ lớp vỏ, rửa sạch trước khi pha chế thành món. Ăn năn bộp đơn giản là ăn sống. Năn bộp chấm nước cá kho hoặc thịt kho cắn thêm miếng ớt hiểm xanh đã ngon, nhưng ngon hơn khi chấm mắm kho. Với món xào, ngoài tép, người ta còn xào năn bộp với thịt nghêu hoặc thịt hến. Để món ăn thêm phần hấp dẫn, người ta phi tỏi cho thơm cánh mũi, nhưng quyến luyến chân răng là khi được xào với chút nước cốt dừa. Mùi thơm của tỏi phi, vị ngọt của năn bộp của thịt nghêu của thịt hến cùng vị béo của nước cốt dừa là kỷ niệm nhớ đời của người sành ẩm thực. Đâu đã hết, năn bộp còn dùng nấu canh cá, thịt hoặc tép. Thực đơn xào năn bộp ông Lâm kể phong phú hơn món năn bộp xào tép đơn điệu ở quê nhà khiến ông Phước mê mẩn tâm can.
      Nhưng đâu đã hết, ông Lâm còn khiến ông Phước kinh ngạc khi sai con ra chợ mua về một keo dưa năn bộp. Mở nắp, ông Phước hấp tấp nhón vài cọng dưa có màu trắng xanh đẹp cho vào miệng nhai. Những cọng dưa năn bộp mềm mát mặt lưỡi có vị chua khoái khẩu càng khiến ông đê mê các giác quan! Ông Lâm cười nói làm dưa năn bộp rất dễ. Muốn ăn liền thì trộn với giấm đường cùng một ít muối, nửa tiếng đồng hồ sau có thể dọn lên mâm.
      Nhưng muốn ngon hơn, dùng nước vo gạo pha muối đường, cho năn vô, ém
chặt bằng chiếc dĩa, đậy kín, hôm sau dưa dậy chua, ăn kèm với món nào cũng kích thích tiêu hóa.
      Chính vì vậy mà mỗi mùa mưa, ông Phước cũng cố gắng thân hành xuống Bạc Liêu một chuyến để thưởng thức hương vị ngọt ngon của tuổi ấu thời đã thành nếp trong đầu ông. Ông thầm tiếc chưa có nhà hàng nào ở các thị xã, thành phố đưa năn bộp vào thực đơn, giống như bồn bồn đã thoát khỏi chiếc áo hoang dã thành một đặc sản hút hồn khách phố thị.

      Cũng là loại cỏ như năn bộp, hẹ nước là đặc sản của thành phố Vị Thanh (Hậu Giang), xã Bình Phong Thạnh (Mộc Hóa, Long An). Đến Vị Thanh, ghé chợ sẽ bắt gặp vài ba chị bán loại “cỏ” độc đáo này. Chị Huỳnh Kim Ghết, người bán hẹ nước chia sẻ: Cứ sau vài trận mưa đầu mùa, các thửa ruộng vùng đất ngập phèn lênh láng nước. Đó là lúc những cây hẹ nước bắt đầu đâm tược. Chẳng mấy chốc, cọng hẹ đã mọc dài chừng năm sáu tấc, mặt lá rộng cỡ bề ngang một ngón tay. Loại “rong” này không chỉ mọc ở ruộng nước mà còn có mặt ở các kinh mương, đầm nước vùng đất phèn. Nơi nào nước sâu, chảy mạnh và nhiều thì lá hẹ nước có màu xanh đậm, to bản hơn, xốp hơn, giòn hơn và thơm hơn hẹ mọc ở đáy mương. Nhổ hẹ nước về, người ta cắt bỏ phần gốc, rễ, rửa sạch. Hẹ nước ăn sống như một loại rau, chấm nước cá kho, thịt kho…nhưng ngon nhất là chấm mắm kho.
      Trung tâm Nghiên cứu bảo tồn dược liệu Đồng Tháp Mười – Remedica - ở xã Bình Phong Thạnh đã đưa hẹ nước vào món lẩu mắm mặn mà của mình phục vụ du khách trong mùa nước nổi. Anh Lê Bá Đại (thành phố Vĩnh Long, Vĩnh Long) khoe: “Tới đây, mình được đi xuồng ba lá trên những con kinh dài mút mắt uốn khúc theo bìa rừng, lúc lúc gặp một bầy le le, gà nước, cò ma, giang sen cất cánh bay vụt lên… Nhưng đã nhứt là ăn lẩu mắm. Lẩu mắm là sự “trở mình” của mắm kho. Ngày xưa ăn mắm kho với vài ba loại rau, nhưng thưởng thức lẩu mắm ngày nay phải ê hề rau cải. Hẹ nước hiện diện trong bữa tiệc rau cải này sẽ làm tăng thêm giá trị của món ăn được mệnh danh là “ẩm thực thời khẩn hoang”. Cảm giác ngon miệng của các loại rau, bông khác chấm mắm kho, lẩu mắm là chuyện ai cũng biết.

      Nhưng cái ngon của hẹ nước chấm mắm kho, lẩu mắm mới đặc biệt. Vì, lúc
mới ăn chẳng cảm thấy gì nhưng càng nhai càng nghe vị ngọt rất đặc trưng của nó lẫn vị mặn ngọt của món ăn, từ thân hẹ nước tiết ra, thấm dần, thấm dần vào dạ dày.
      Tới chợ Vị Thanh, ngoài chị Huỳnh Thị Ghết bán hẹ nước, mùa mưa còn bắt gặp chị Thạch Kim Phên bán đọt choại. Đọt choại là tên của một loại dây leo hoang dã, nhưng người ta thường gọi nó bằng cái tên dân giả: “đọt chại”. Chị Kim Phên cho biết đọt choại có mặt ở một số nơi trong các tỉnh Kiên Giang, Cà Mau, Hậu Giang trong vùng bưng trũng. Choại là loại dây leo, thân bò tới đâu bám rễ tới đó, lá non xoăn tít như con cuốn chiếu cuộn mình, chính là món ngon dân dả. Choại có nhiều loại: choại đá, choại vườn, choại rừng... Choại rừng có màu xanh nhạt pha chút hồng sẫm, rất được dân Đồng Tháp Mười ưa chuộng. Ở Đồng Tháp, người ta gọi là “choại chột” hay “rau chay”.
      Cô Trương Cẩm Hoa “bày” ở thành phố Vị Thanh vô nhà hàng lớn như nhà hàng Hậu Giang sẽ được biết ngay hương vị đọt choại. Một nhà hàng ở Hậu Giang có lẩu cá ngát, cá hồi ăn với đọt choại tê mê răng lưỡi hoặc ăn với thác lác cườm (đặc sản Hậu Giang) chiên cũng thú vị. Nhưng nếu có dịp quá bộ tới Đồng Tháp, sẽ ăn được vài ba món “trứ danh” làm từ đọt choại. Đầu tiên là đọt choại nấu canh chua cá rô đồng. Vị đắng của đọt choại như bị vị ngọt cá rô đồng cùng vị chua của me “hóa giải” thành một vị tổng hợp khó tả. Anh Lê Văn Bảnh ở Gáo Giồng (Đồng Tháp) “tả oán” qua điện thoại: “Gặp lúc cá rô đồng đang “ôm trứng” thì bạn “trúng mánh” lớn.
      Trứng cá rô đồng ngon ác liệt nhờ béo bùi ngây ngất tâm thần. Người Đồng Tháp Mười còn có món ngon nhớ đời thực hiện khá “bài bản”. Đó là cháo nhộng ong nấu độn măng tươi, đọt choại và nấm rơm khiến người sành ăn cứ tấm tắc ngợi khen. Đâu đã hết, mùa nước nổi, bông điên điển nở vàng đồng. Hái bông điên điển và đọt choại rửa sạch nấu canh chua lươn là món nhậu hết ý. Mưa gió dầm dề, bạn bè túm tụm bên nhau hàn huyên tâm sự bên cái lẩu tỏa hơi nóng nghi ngút “tràn trề” hương vị quyến rũ thì còn gì bằng!
      Cũng đâu đã hết. Anh Hoàng Thế Bổn, dù là dân Quảng Nam vô đây sinh sống nhưng là người “đại ghiền” đọt choại. Vừa nuốt nước bọt anh vừa kể một lô một lốc các món ăn pha chế từ đọt choại, từ ăn sống tới ăn chín, món nào cũng “ngon nhứt xứ”. Hơn hẳn năn bộp và hẹ nước lẹt đẹt ở mâm nhà, đọt choại đã “nhanh chân” có mặt tại một siêu thị Cần Thơ, và “chễm chệ” trong thực đơn một nhà hàng ở thành phố Cần Thơ. Tới đây, bạn sẽ được thưởng thức món đọt choại đơn sơ nhất là luộc chấm cá kho quẹt. Tay đầu bếp tài hoa này mới đáng phục làm sao khi luộc đọt choại vừa mềm vừa giòn vừa mướt như có chế mỡ vào. Còn cá kho quẹt thì ăn rồi nhớ quê quá xá! Chấm đọt choại với cá kho quẹt ăn với cơm nóng thiệt tình… hao cơm!
 

      Ngoài ngon miệng, ba loại rau cỏ này còn có giá trị sinh học. Một lương y cho biết chất xơ của chúng ngoài việc giúp điều hòa bài tiết, còn giúp ức chế hoạt động của các vi sinh vật kỵ khí, thúc đẩy vi sinh vật hiếu khí (có lợi cho tiêu hóa) sinh trưởng, làm cho giảm lượng hình thành choleic trong đại tràng.
      Vì vậy nên, khi những cơn mưa đêm lất phất gây buồn, người miển Tây bắt đầu ngẩn ngơ nhớ ba loại rau dân dã trên. Năm nay được ăn rồi, muốn được thưởng thức chúng, phải “dài cổ” chờ mùa mưa năm sau!
 
PHÙ SA LỘC
------------
Chú thích hình:
1. Một điểm bán năn bộp
2. Đọt choại
3. Hẹ nước

Wednesday, 20 July 2022

Hồn Trẻ 20 và bạn hữu

CÁO PHÓ của gia đình 
THÚY NGA/PARIS BY NIGHT




 


 

Bài viết khác của tác giả Hồn Trẻ 20


TIỂU SỬ 
ÔNG PETER TÔ VĂN LAI

 


      Ông Tô Văn Lai có tên Thánh là Phêrô (Peter). Ông chào đời ngày 11 tháng 5 năm 1937 tại xã Bình Hòa, Gia Định. Thân Mẫu ông là Cụ Bà Tô Thị Trọng. Thuở nhỏ ông sống với Mẹ, nên ông đã dành tất cả tình yêu thương cho Thân Mẫu của ông. Vì thế, không lấy gì làm lạ khi ông Tô Văn Lai luôn luôn ấp ủ việc thực hiện những chương trình ca nhạc vinh danh các Bà Mẹ, chẳng hạn như cuốn băng video Paris by Night chủ đề “Mẹ”, và gần đây nhất là chương trình nhạc hội live, chủ đề “Con Thương Nhớ Mẹ”, đã được tổ chức ngày  8 tháng 5 vừa qua tại Pechanga Casino Theater, Nam Cali; nhân dịp Mother’s Day 2022.

Ông Tô Văn Lai, bà Nguyễn Ngọc Thúy và trưởng nữ là Marie Tô
 
Bà Nguyễn Ngọc Thúy trông coi tiệm băng nhạc Thúy Nga
 
      Ông Tô Văn Lai đã lập gia đình với bà Nguyễn Ngọc Thúy (thường được gọi tắt là bà Thúy). Họ có 2 người con:  trưởng nữ là Tô Ngọc Thủy và trưởng nam là Tô Ngọc Kim. Hai người con trong gia đình Thúy Nga này đang nối gót cha mẹ trên con đường làm văn hóa nghệ thuật, dồn hết công sức vào việc thực hiện và phát hành các sản phẩm của trung tâm Thúy Nga – đặc biệt là Tô Ngọc Thủy (Marie Tô), cùng chồng là Huỳnh Thi (Paul Huỳnh) hiện là Executive Producers của Thúy Nga Productions.



      Thời còn đi học, ông Tô Văn Lai đã đậu bằng Thành Chung (Diplôme, tức là bằng tốt nghiệp Trung học Pháp). Sau đó, vì gia cảnh nên ông chọn theo học ngành Sư Phạm và trở thành giáo sư Triết. Ông đã dạy tại trường trung học Lê Ngọc Hân, Mỹ Tho.

      Năm 1972, gia đình ông Tô Văn Lai mở gian hàng Thúy Nga bán băng nhạc, bên trong thương xá Tam Đa (Crystal Palace) ở khu đường Nguyễn Trung Trực & Công Lý & Lê Lợi, Sài Gòn. Bà Nguyễn Ngọc Thúy đứng ra trông coi gian hang này. Nơi đây, ngoài những tuồng cải lương được thu vào băng cassette, Thúy Nga cũng đã sản xuất một số băng cassette với các tiếng hát được thính giả ưa chuộng nhất, như Thái Thanh Selection, Tiếng Hát Thanh Tuyền v.v…

      Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, ông Tô Văn Lai đã phải bỏ nghề dạy học. Do vợ ông là bà Nguyễn Ngọc Thúy có quốc tịch Pháp nên cả gia đình ông Tô Văn Lai đã được nhận vào nước Pháp theo diện công dân Pháp hồi hương. Ông cùng gia đình sang Pháp vào khoảng tháng 10 năm 1976, cư ngụ trong một chung cư dành cho những người có quốc tịch Pháp hồi hương. Gia đình ông đã sống tại Oissel là một thành phố nhỏ gần thành phố lớn Rouen, cách thủ đô Paris 200 km.

      Tháng 2 năm 1979, gia đình ông Tô Văn Lai mở một cây xăng ở thành phố Bondy, ngoại ô Paris. Nhờ cây xăng này mà gia đình ông có nguồn tài chánh để về sau lập nên trung tâm Thúy Nga trên đất Paris.

      Do niềm đam mê văn hóa nghệ thuật chảy trong huyết quản, nên năm 1981, ông Tô Văn Lai mở tiệm băng nhạc Thúy Nga ở số 45, Boulevard Saint-Germain-des-Prés thuộc quận 5 trong thành phố Paris. Hằng ngày, cũng bà Nguyễn Ngọc Thúy trông coi tiệm Thúy Nga Paris. Nơi đây gia đình Thúy Nga bán các băng cassette sang lại các băng nhạc đã phát hành trước năm 1975. Ngày khai trương tiệm Thúy Nga ấy có sự tham dự của nhiều người khách đặc biệt, như: nhạc sĩ Lam Phương, ca sĩ Hương Lan, ca sĩ Ngọc Hải, nhà tổ chức ca nhạc Hà Phong, ca sĩ Bạch Yến, ca sĩ Thanh Mai v.v…

      Thế rồi năm 1985, tiệm Thúy Nga được về địa chỉ 44 Avenue d’Ivry, thuộc quận 13 Paris vì lúc đó cộng đồng người Việt tại Paris tập trung đông đảo ở quận 13. Đây là thời điểm đánh dấu những bước tiến đầy sáng tạo của gia đình ông Tô Văn Lai, từ đây trung tâm Thúy Nga bắt đầu vươn tới để đạt đến vị trí hàng đầu của nền văn nghệ Việt Nam nơi hải ngoại như mọi người đang nhìn thấy.

      Năm 1983, ông Tô Văn Lai gom góp tất cả số tiền mà gia đình ông dành dụm được, tìm đến đài truyền hình TF5 của Pháp để thương lượng nhờ đài này thu hình cho ông cuốn băng Paris By Night đầu tiên. Nhờ khả năng Pháp ngữ thông thạo của ông Tô Văn Lai đủ sức thuyết phục, nên giám đốc đài truyền hình TF5 là ông Jean-Pierre Barry đã nhận lời thực hiện cuốn băng video cho trung tâm Thúy Nga. Thế là sản phẩm Paris By Night số 1 ra đời, nhờ kỹ thuật cao của công ty Euromedia.

Ông bà Jean-Pierre Barry và ông Tô Văn Lai

      Do hệ thống phát hành chưa hoàn hảo, việc thu lại vốn khó khăn, nên phải đợi đến 3 năm sau, tức là năm 1986, trung tâm Thúy Nga mới có đủ khả năng tài chánh để thực hiện các cuốn băng Paris By Night đều đặn mỗi năm.

      Bên cạnh đó, trung tâm Thúy Nga cũng đã sản xuất rất nhiều băng video cải lương, chẳng hạn như tuồng Tuyệt Tình Ca (Thúy Nga Video #1), Lương Sơn Bá & Chúc Anh Đài (Thúy Nga Video #3), Khi Hoa Anh Đào Nở (Thúy Nga Video #7), Cho Trọn Cuộc Tình (Thúy Nga Video #8) v.v…

      Thêm vào đó, tấm lòng yêu nước và hoài bão về một ngày quê hương Việt Nam yêu dấu có được tự do của ông Tô Văn Lai khiến ông dốc tâm huyết thực hiện những cuốn băng video được coi là những tuyệt tác để đời, chẳng hạn như: Giã Biệt Sài Gòn (Thúy Nga Video #10), Giọt Nước Mắt Cho Việt Nam (Thúy Nga Video #13), Nước Non Ngàn Dặm Ra Đi (Thúy Nga Video #16), Mùa Xuân Nào Ta Về (Thúy Nga Video #32), Chúng Ta Đi Mang Theo Quê Hương (Paris By Night 49), Cây Đa Bến Cũ (Paris By Night 59), Huế - Sài Gòn - Hà Nội (Paris By Night 91) v.v…

      Ngoài sự đam mê nghệ thuật như đã nói trên, ông Tô Văn Lai còn có tài nhận xét tinh tế và nhạy bén trên thương trường. Ông là người đã ra sức thuyết phục gia đình ông dọn sang Hoa Kỳ mở trung tâm Thúy Nga ở Bolsa Ave, Westminster, Cali; là nơi có cộng đồng người Việt đông nhất hải ngoại. Ông là người đã mời nhà văn Duyên Anh viết lời thuyết minh cho những cuốn băng video như Giã Biệt Sài Gòn, Giọt Nước Mắt Cho Việt Nam v.v... Ông là người đã mời nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn sang Paris làm MC cùng với cô Nguyễn Cao Kỳ Duyên cho các chương trình Paris By Night. Ông là người đã đưa ý kiến nên thực hiện nhiều chương trình chủ đề về những nhạc sĩ và các tác phẩm tiêu biểu của họ. Ông cũng là người khuyên ban giám đốc trung tâm Thúy Nga nên ngừng sản xuất loại băng VHS để chuyển sang DVD và đĩa Blu-ray v.v… 

Vợ chồng Huỳnh Thi & Tô Ngọc Thủy Executive Producers của trung tâm Thúy Nga/Paris By Night

Ông Tô Văn Lai và trưởng nữ Marie Tô trong dịp Tết 2022
 
      Chẳng qua, sinh mệnh con người do Thượng Đế định đoạt. Ông Tô Văn Lai đã được Chúa gọi về, ngày 19 tháng 7 năm 2022 tại Orange County, để lại nỗi đau buồn thương tiếc vô hạn cho thân nhân, họ hàng, bằng hữu của ông và vô số nghệ sĩ, khán thính giả xa gần. Ông hưởng thọ 85 tuổi.

      Sự ra đi của ông Tô Văn Lai rời khỏi thế gian này là một mất mát vô cùng to tát cho nền văn hóa nghệ thuật Việt Nam nói chung, chứ không riêng gì hải ngoại. Xin hiệp lời cầu nguyện cho linh hồn Peter Tô Văn Lai sớm được hưởng nhan Thánh Chúa.

      Có thể nói mà không ngại quá lời, là hàng chục triệu người Việt Nam ở khắp thế giới sẽ không bao giờ quên tên trung tâm băng nhạc Thúy Nga – mà người ta vẫn quen gọi Paris By Night – và hai người gây dựng nên trung tâm băng nhạc này là ông Tô Văn Lai và bà Nguyễn Ngọc Thúy. Nếu không có sự khởi đầu của ông bà Tô Văn Lai là can đảm dốc hết tiền bạc dành dụm để thực hiện cuốn băng video đầu tiên với công ty Euromedia của Pháp, thì chắc gì sinh hoạt văn nghệ hải ngoại trỗi dậy mạnh mẽ và vững vàng từ sau năm 1975 cho đến bây giờ là năm 2022.

      Ông Tô Văn Lai xứng đáng được người Việt khắp thế giới vinh danh vì công lao của ông góp phần vào việc bảo tồn văn hóa Việt Nam cũng như làm cho văn hóa Việt Nam càng ngày càng thêm phong phú.

(Nguyên Nghĩa viết, 7/2022)

Tuesday, 12 July 2022

Hồn Trẻ 20 và bạn hữu

Khánh thành công viên "Hành trình tìm Tự do" và tượng đài thuyền nhân Việt Nam tại Calgary
 
Vũ Phạm Yên
 
 
Nguồn: Tác giả gửi.

Hồn Trẻ 20 và bạn hữu

Nguyễn Tuấn Khanh

Giải mã người đầu tiên thành lập "Hội Nghệ sĩ Ái hữu Tương tế"

LTS: Trên chuyên mục Câu chuyện Văn hoá của Người Đô Thị online ngày 5.10.2019 có bài viết "Người bí ẩn đã lập nên 'Hội Nghệ sĩ ái hữu tương tế' là ai?" và ngày 2.12.2020 tiếp tục có bài viết "Nói thêm về người lập nên ‘Hội Nghệ sĩ ái hữu tương tế’" của tác giả Lê Đại Anh Kiệt. Các bài viết ghi chép và cung cấp thông tin nhằm góp thêm câu chuyện ai là người đã lập nên Hội Nghệ sĩ ái hữu tương tế.

Sở dĩ có cách tiếp cận như vậy, vì được thành lập từ năm 1948 và hoạt động liên tục từ đó đến nay, có vai trò quan trọng trong sự phát triển của sân khấu cũng như việc đoàn kết giúp đỡ, chăm sóc giới văn nghệ sĩ... tuy nhiên việc ai là người thành lập Hội Nghệ sĩ ái hữu tương tế lại là một bí ẩn.

Nhận thấy đây là vấn đề lịch sử văn hóa khá quan trọng, tác giả các bài viết đã muốn có thời gian đào sâu, tìm thông tin tư liệu làm rõ vấn đề có bài viết đầy đủ hơn. Rất tiếc, vào thời điểm đó (năm 2020) soạn giả Nguyễn Phương đã tạ thế, Nhạc sư Vĩnh Bảo đang lâm trọng bệnh. Bằng sự cầu thị, trước khi kết thúc bài báo, tác giả mong rằng từ thông tin bài viết, cộng đồng yêu thích cải lương sẽ quan tâm góp thêm thông tin làm rõ câu chuyện...

Hơn một năm rưỡi sau ngày bài báo Nói thêm về người lập nên ‘Hội Nghệ sĩ ái hữu tương tế’ được công bố, mới đây tác giả Nguyễn Tuấn Khanh (nhà nghiên cứu, tác giả của cuốn Bước đường của cải lương) đã gửi tới Người Đô Thị bài viết liên quan đến câu chuyện ai là người đã lập nên Hội Nghệ sĩ ái hữu tương tế với những thông tin, tư liệu hoàn toàn mới. Để rộng đường dư luận, Người Đô Thị công bố bài viết này, đồng thời rất mong tiếp tục nhận được phản hồi từ bạn đọc, đặc biệt là những thông tin, tư liệu mới liên quan đến vấn đề đang bàn, để làm phong phú hơn câu chuyện lịch sử, văn hoá về tổ chức đặc biệt này.

Dưới đây, Người Đô Thị trân trọng giới thiệu tới bạn đọc bài viết của tác giả Nguyễn Tuấn Khanh.

Ngôi nhà số 133 Cô Bắc (TP.HCM) xưa nay vốn được xem như nhà thờ tổ của sân khấu cải lương. Ảnh: Bùi Minh Thu


Trên trang Người Đô Thị ngày thứ bảy (5.10.2019) có đăng bài Người bí ẩn đã lập nên ‘Hội Nghệ sĩ ái hữu tương tế’ là ai? của nhà báo Lê Đại Anh Kiệt đã đưa ra một chi tiết mới là Hội Nghệ sĩ ái hữu tương tế do ông Nguyễn Văn Phát, anh ruột của nhạc sư Nguyễn Vĩnh Bảo (từ trần ngày 7.1.2021) là người sáng lập và kiêm luôn chức Hội trưởng. 

Nhà báo Lê Đại Anh Kiệt đã dựa trên những chứng cứ của gia đình nhạc sư Vĩnh Bảo cung cấp gồm thẻ Hội viên hành sự của nghệ sĩ hát bội Nguyễn Thị Út của đoàn Bầu Thắng do ông hội trưởng Nguyễn Văn Phát ký năm 1950 và 2 bản Cấp Bằng Hào Tâm do Chánh hội trưởng Nguyễn Văn Phát ký ngày 19.11.1949 và 23.9.1950.

Với những bằng chứng trên, nhạc sư Vĩnh Bảo đã viết một lá thư đề ngày 29.9.2019 khẳng định: "Anh trai tôi Nguyễn-văn-Phát là bạn chí thân của ông Arondelle Đô Trưởng thành phố Sài gòn-Chợ lớn (Préfet de la Région Saigon-Cholon) nên khoảng năm 1948 đứng ra xin mảnh đất số 133 đường Cô Bắc (Mon Seigneur Dumortier) để lập Hội Nghệ sĩ ái hữu tương tế. Ông Võ-đình-Ban (sui gia của ông Nguyễn-văn-Lượng Nhà thuốc [N]hành Mai) là mạnh thường quân bỏ tiền ra xây cất nhà Hội. Như vậy anh hai tôi Nguyễn-văn-Phát là người sáng lập Hội Nghệ sĩ ái hữu và kiêm luôn chức Hội trưởng, Tổng Thơ ký là nghệ sĩ Nguyễn-thành-Châu thời bấy giờ”.

Bức thư có chữ ký của nhạc sư Vĩnh Bảo (Nguồn: Người Đô Thị) [i] 


Hội Nghệ sĩ ái hữu được thành lập từ năm 1948 và từ đó cho tới bây giờ, mọi người đều biết là hội do các nghệ sĩ tiền phong như Trần Hữu Trang, Nguyễn Thành Châu, Bảy Nam, Phùng Há, Năm Phỉ, Bảy Nhiêu, Tư Chơi... sáng lập và kinh phí để xây căn nhà số 133 đường Cô Bắc mà sau này được gọi nôm na là “Nhà thờ Tổ sân khấu” là do từ các buổi hát gây quỹ cùng với tiền nguyệt liễm của hội viên và mạnh thường quân đóng góp như đạo diễn Nguyễn Hồng Dung (con gái của cố NSND Năm Châu) đã giải thích trong bài An vị bàn thờ Tổ sân khấu tại ngôi nhà sau tu sửa hơn 800 triệu đồng của Thanh Hiệp trên báo Người Lao Động ngày 29.12.2017: “Ngôi nhà 133 Cô Bắc này có được là nhờ vào tích lũy từ các đợt hát gây quỹ vận động mạnh thường quân đóng góp, thu tiền nguyệt phí của hội viên và để làm trụ sở hoạt động công khai hợp pháp cho các cơ sở cách mạng hoạt động tại nội thành”.

Nay với chi tiết mới của nhạc sư Vĩnh Bảo đưa ra nhưng những người trong cuộc đều đã ra người thiên cổ nên khó kiểm chứng. Thời may, chúng tôi liên lạc được với soạn giả Nguyễn Phương ở Canada, lúc đó ông đã 98 tuổi, kém nhạc sư Vĩnh Bảo 4 tuổi và đã hoạt động trong ngành nghệ thuật sân khấu từ năm 1948 để hỏi về sự kiện này.

Ngày 26.10.2019 soạn giả Nguyễn Phương đã viết bài Ai là Hội Trưởng đầu tiên của Hội Nghệ Sĩ Ái Hữu Tương Tế Saigon? để gởi đăng trên Thời Báo ở Canada và trên trang mạng www.namkyluctinh.org. Soạn giả Nguyễn Phương cho biết là lúc đó soạn giả Trần Hữu Trang được liên lạc viên của cách mạng đưa vào chiến khu 8 họp và được gợi ý thành lập Hội Nghệ sĩ ái hữu tương tế để các nghệ sĩ giúp đỡ lẫn nhau. Khi trở về Trần Hữu Trang tới gặp nghệ sĩ Thanh Cao để cám ơn đã giới thiệu người đưa ông vô chiến khu 8 và đã thuật lại việc này với sự có mặt của soạn giả Nguyễn Phương.

Cũng theo soạn giả Nguyễn Phương: “Đây là thời kỳ có chiến tranh Việt Pháp. Pháp không bao giờ cho người không được Pháp tin tưởng lập hội. Các vụ tụ tập đông người trong việc quan, hôn, tang, tế đều phải xin phép, được ông Cò sở tại cấp giấy phép thì mới được tổ chức” nên họ đã kiếm một người công chức được nhà cầm quyền Pháp tin tưởng để đứng đơn xin lập Hội Nghệ sĩ ái hữu và ông Nguyễn Văn Phát được mời làm hội trưởng.

Sau bài báo của soạn giả Nguyễn Phương, ngày 2.12.2020 nhà báo Lê Đại Anh Kiệt viết tiếp bài Nói thêm về người lập nên ‘Hội Nghệ sĩ ái hữu tương tế’ được đăng trên Người Đô Thị nêu lên nghi vấn của nhạc sư Vĩnh Bảo:

Một số điểm còn tồn nghi theo tinh thần bài viết của soạn giả Nguyễn Phương ghi lại câu chuyện của nghệ sĩ Trần Hữu Trang thì ông Phát chỉ được mời đứng đơn xin phép. Nhạc sĩ Vĩnh Bảo không tranh luận nhưng bảo lưu ý kiến là ông Nguyễn-văn-Phát là bạn chí thân của ông Arondelle Đô Trưởng thành phố Sài gòn-Chợ lớn (Préfet de la Région Saigon-Cholon) nên không chỉ đứng đơn xin lập Hội, đứng tên Hội trưởng mà khoảng năm 1948 ông đứng ra xin mảnh đất số 133 đường Cô Bắc (Mon Seigneur Dumortier) để lập Hội.

Ngoài ra Nhạc sư Vĩnh Bảo, cung cấp thêm một số thông tin như sau: “Anh Nguyển-văn-Phát của tôi đàn kìm cổ nhạc với lối chơi khép kín, nghĩa là đờn chơi với anh em trong gia đình. Không bao giờ đờn chơi với các nhạc sĩ bên ngoài. Các nhạc sĩ Hai Khuê Tư Thưởng, Tăng Kim Luông Chánh Dân không biết mặt ông Nguyển-văn-Phát, nhà ở đâu thì làm gì có chuyện mời ông làm Hội Trưởng, đứng đơn xin nhà cầm quyền Pháp cấp giấy phép thành lập Hội Nghệ sĩ ái hữu tương tế. Việc xin thuê đất lập Hội Nghệ sĩ ái hữu tương tế số 133 đường Cô Bắc là nhờ quen thân với ông Arondelle, Đô Trưởng Sàigòn Chợ Lớn ông Nguyển-văn-Phát tự động làm”.

Tóm lại, nhạc sư Vĩnh Bảo dựa trên thẻ Hội viên hành sự và hai bản Cấp Bằng Hào Tâm có chữ ký của ông Hội trưởng Nguyễn Văn Phát ký năm 1949 và 1950 cho rằng anh của ông là người đã sáng lập ra Hội nghệ sĩ ái hữu, còn soạn giả Nguyễn Phương là người được nghe trực tiếp từ soạn giả Trần Hữu Trang thuật lại việc ông nhận chỉ thị của Ban Tuyên truyền khu 8 để thành lập hội chứ không phải do riêng một cá nhân nào tự đứng ra kêu gọi. Cả hai vị khi đưa ra những lập luận trên đều đã cao tuổi, một người đã 102 tuổi nhưng không có liên quan gì đến nghệ thuật sân khấu và một người 98 tuổi có trên 60 năm trong nghề nên khi khảo sát vấn đề, chúng ta không thể bỏ qua việc nhầm lẫn nếu có do tuổi tác ảnh hưởng tới trí nhớ và kinh nghiệm nghề nghiệp. Theo những gì soạn giả Nguyễn Phương thuật lại thì đại khái cũng giống như những gì báo chí đã thuật lại từ trước, riêng chi tiết của nhạc sư Vĩnh Bảo đưa ra khá mới lạ và cần kiểm chứng lại.

Theo định nghĩa, “Hội ái hữu là hình thức tổ chức thấp nhất của những người cùng nghề nghiệp, lập ra thời Pháp thuộc để giúp đỡ nhau và đấu tranh bênh vực quyền lợi trong điều kiện không có quyền lập công đoàn”[ii], nhưng theo nhạc sư Vĩnh Bảo, ông Nguyễn Văn Phát “là nghệ nhân tài hoa về âm nhạc và đam mê đàn ca tài tử”[iii] nhưng “Anh Nguyễn-văn-Phát của tôi đàn kìm cổ nhạc với lối chơi khép kín, nghĩa là đờn chơi với anh em trong gia đình. Không bao giờ đờn chơi với các nhạc sĩ bên ngoài”[iv]  nhưng “Vì tình yêu âm nhạc, yêu thương nghệ sĩ cải lương và với những quan hệ xã hội thuận lợi trong guồng máy công chức chính quyền thuộc địa lẫn với giới văn nghệ sĩ, việc ông Phát đứng ra xin đất, vận động cất nhà trụ sở và thành lập Hội Nghệ sĩ ái hữu tương tế và trở thành Hội trưởng là điều phù hợp logic”. Một người chỉ đờn chơi theo lối khép kín với anh em trong gia đình mà vì yêu âm nhạc và yêu thương nghệ sĩ cải lương mà tự động đứng ra xin đất và thành lập hội ái hữu không liên quan gì đến nghề nghiệp của mình thì thật là khó tin! Nghi vấn thứ hai là Hội Nghệ sĩ ái hữu tương tế được thành lập từ năm 1948 nhưng mãi cho tới năm 2019, 71 năm sau khi hội được thành lập, sự việc ai là người sáng lập ra hội này mới được nhắc đến trong khi những người trong cuộc đã quá vãng thì việc làm này với mục đích gì?

Để tìm hiểu ngọn ngành của sự việc, chúng tôi đã tìm các hồ sơ trong Trung tâm Lưu trữ quốc gia II - Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước tại số 17A Lê Duẩn, quận 1, TP.HCM và đã tìm ra đáp án: Người đứng tên làm đơn vào ngày 19.4.1948 và là hội trưởng đầu tiên của Hội Nghệ sĩ ái hữu tương tế là ông TRẦN KHIÊM CUNG.

Ông Trần Khiêm Cung là ai? Theo nhà báo Ngành Mai trong bài viết Hát bội ở Miền Nam Việt Nam ngày xưa trên RFA ngày 29.6.2014: “Thời thập niên 1940, dài cho đến những năm đầu của thập niên 1950 gánh hát bội Tấn Thành Ban, một trong những đoàn danh tiếng thời bấy giờ do ông Huyện Trần Khiêm Cung làm bầu gánh (Ông Bầu Cung là một trong những người đứng ra xin giấy phép thành lập Hội Nghệ Sĩ Ai Hữu và là hội trưởng đầu tiên năm 1948)”[v]. Nhà báo Ngành Mai cũng như đạo diễn Nguyễn Hồng Dung đã có cuốn Điều lệ hội Nghệ sĩ ái hữu tương tế in năm 1948 nên họ đã dựa theo cuốn Điều lệ hội đó mà phát biểu những gì liên quan đến hội hoặc căn nhà số 133 đường Cô Bắc.

Thư cảm ơn của ông Trần Khiêm Cung khi hội được chánh quyền chấp thuận cấp giấy phép cho thành lập.


Trong cuốn Điều lệ hội này có ghi rõ Mục Đích và Ý Nghĩa Thành Lập Hội như sau:

Hội thành lập gồm có: các kịch sĩ, văn sĩ, họa sĩ, các chủ gánh hát và tất cả những người sống liên quan mật thiết về nghệ thuật sân khấu; hợp nhau lập thành một hội lấy tên là:

“NGHỆ SĨ ÁI HỮU TƯƠNG TẾ HỘI”

a.     Hội lập ra với mục đích là: lập một ĐỀN THỜ TỔ NGHỀ HÁT để có chỗ tín ngưỡng chung. Hằng năm đến ngày giỗ (11, 12, 13 và 14 THÁNG TÁM ÂM LỊCH) và ngày ĐƯA THÁNH TỔ (24 và 25 tháng Chạp Âm lịch) những nghệ sĩ sống về sân khấu ở các nơi tựu về nơi đây cúng kiến.

b.     Để giúp đỡ các nghệ sĩ bị tai nạn, bịnh tật, mãn phần hoặc vì già nua tuổi tác không thể đeo đuổi để phụng sự cho nghề nữa phải giải nghệ.

Hội quán tạm tại đường ____________________ số ______________ ở Saigon.

Và các việc làm đầu tiên của hội là:

1.     Khi được nhà cầm quyền phê chuẩn cho phép thành lập hội rồi, thì Ban Trị Sự phải lo tổ chức các buổi hát, hoặc tìm cách mua giàn các ban hát đặng có huê lợi cho hội để: Lập tức kiếm mua hoặc mướn một miếng đất ở trong địa phương Saigon-Chợ Lớn cất ĐỀN THỜ THÁNH TỔ và HỘI QUÁN cho hội (nếu chưa tìm được đất thì tạm mướn chỗ: nhà hoặc phố làm Hội Quán và Đền Thờ).

2.     Sau khi hội đã cất Đền Thờ và nhà Hội Quán thì phải kiếm mua một miếng đất ở các vùng ngoại ô phụ cận Saigon-Chợ Lớn đặng làm nghĩa địa cho hội.

3.     Khi huê lợi của hội đặng dồi dào rồi, thì Ban Trị Sự đương niên tại chức phải lập tức cho toàn thể hội viên hay trong một buổi nhóm Đại hội để bàn định việc làm cho huê lợi của hội được sinh sôi nẩy nở như: Cất một rạp hát để:

a.     Ngày thường thì để cho các gánh hát mướn biểu diễn.

b.     Ngày cúng Thánh Tổ dùng rạp làm võ ca để hát cúng.

Hội quán tạm thời lúc đầu được đặt tại số 119 đường Boresse (nay là số 119 đường Yersin thuộc quận 1, TP.HCM và hiện giờ là Diag Laboratorries - Cơ sở lấy máu xét nghiệm) và ông Trần Khiêm Cung làm hội trưởng niên khóa 1948-1949. Xin mở ngoặc ở đây là theo soạn giả Nguyễn Phương, hội quán tạm thời lúc đầu ở đình Cầu Muối, nhưng thật ra theo giấy tờ hành chánh thì trụ sở tạm ở số 119 đường Boresse, không rõ là soạn giả Nguyễn Phương có nhớ lầm hoặc lúc đó các nghệ sĩ hội viên thường gặp nhau ở đình Cầu Muối thay vì ở trụ sở tạm thời?

Số nhà 119 đường Yersin, TP.HCM hiện nay. Vào năm 1948 tên đường là Boresse, ngôi nhà này được dùng làm trụ sở tạm của hội ‘Nghệ sĩ ái hữu tương tế’ khi hội mới thành lập. Ảnh chụp tháng 6.2022. Ảnh: Lê Thể

Thành phần hội viên được chia ra làm hai hạng là Hội viên danh dự Hội viên hành sự. Hội viên danh dự là những người giúp ích cho hội hay có nhiều công với hội, còn Hội viên hành sự là những người có đóng tiền nguyệt liễm hằng tháng và chịu tuân theo điều lệ của hội.

Sau một năm thành lập với 400 hội viên, khi đơn xin lập hội được chính thức chấp thuận trên phương diện pháp lý, hội đã có đủ kinh phí do các hội viên cùng các nhà hảo tâm đóng góp để xây một hội quán, ông Nguyễn Văn Phát được bầu làm hội trưởng để thuận tiện cho việc đứng đơn xin do uy tín và quan hệ ngoại giao của ông ta với chính quyền đương thời.

Có thể trong thời gian vận động kinh phí để xây hội quán, ông Nguyễn Văn Phát đã xin được mảnh đất số 133 đường Cô Bắc và ông Võ Đình Ban cũng đã giúp một số tiền lớn để xây cất hội quán như nhạc sư Vĩnh Bảo đã giải thích trong bức thư ngày 29.9.2019, nhưng họ chỉ là những mạnh thường quân hoặc là Hội viên danh dự chứ không phải là người sáng lập như nhạc sư Vĩnh Bảo đã viết.

Danh sách Ban trị sự tạm thời và Ban trị sự thiệt thọ của hội Nghệ sĩ ái hữu tương tế năm 1948.


Cũng trong bức thư ngày 29.9.2019, nhạc sư Vĩnh Bảo đã yêu cầu: “Những người trong cuộc đã vào cõi vĩnh hằng, nhưng cái gì của César phải trả lại cho César”, nay chúng ta có thể khẳng định, người sáng lập ra Hội Nghệ sĩ ái hữu tương tế không phải là ông Nguyễn Văn Phát như nhạc sư Vĩnh Bảo đưa ra vì tên của ông ta không có trong danh sách Ban Trị Sự tạm thời hoặc thiệt thọ của hội năm 1948 là năm hội được thành lập, mà gồm những tên tuổi quen thuộc của các vị Năm Phỉ, Bảy Nhiêu, Thanh Cao, Trần Hữu Trang, Ba Vân, Năm Châu, Phùng Há, Tư Chơi, Năm Nở… như báo chí vẫn thường nhắc tới từ năm 1948 cho tới bây giờ, nhưng không vì vậy mà chúng ta quên đi sự đóng góp của ông Nguyễn Văn Phát.

Nhà báo Thanh Hiệp đã ghi nhận ông Phát là một mạnh thường quân trong bài báo kể trên: “Theo hợp đồng mua bán còn lưu lại, người đứng tên trong sổ sách nhà đất là ông Nguyễn Văn Phát - một mạnh thường quân, nhân sĩ trí thức và cũng chính là anh ruột của Giáo sư Nguyễn Vĩnh Bảo”. Ngoài ra, ông Nguyễn Văn Phát cũng không phải là vị hội trưởng đầu tiên của Hội Nghệ sĩ ái hữu tương tế mà vị hội trưởng đầu tiên của hội là ông Trần Khiêm Cung, tức ông Huyện Cung (hoặc Bầu Cung).

Trụ sở hội "Nghệ sĩ ái hữu tương tế" tại số 133 đường Cô Bắc, TP.HCM. Ảnh chụp tháng 6.2022. Ảnh: Lê Thể


Hội Nghệ sĩ ái hữu tương tế được thành lập ngày 19.4.1948 với hai mục đích chính là xây một Đền thờ Tổ nghề hát và giúp đỡ các nghệ sĩ sân khấu khi bịnh tật, nghèo khó, neo đơn. Mục đích xây đền thờ Tổ là để có nơi thờ phượng Tổ nghề hát. Truyền thống uống nước nhớ nguồn đó các nghệ sĩ sân khấu đã và đang thực hiện từ năm 1948 cho tới bây giờ và họ vẫn thường nhắc nhở tới công lao của các bậc thầy tổ tiền bối mỗi khi họp mặt ở hội quán. Những tin tức dù vô tình hay cố ý có liên quan đến Nhà thờ Tổ nhưng sai lạc của những người không phải trong nghề hát và không rõ họ làm với mục đích gì, chúng ta phải cẩn thận tra cứu độ chính xác trước khi phổ biến để thế hệ mai sau không bị lầm lẫn.

Nguyễn Tuấn Khanh 

San Jose, 26.6.2022

Nguồn:

https://nguoidothi.net.vn/giai-ma-nguoi-thanh-lap-hoi-nghe-si-ai-huu-tuong-te-35575.html